Friday, April 30, 2021

Bản Án Tử Hình



Mắt tôi mờ đi, tờ giấy nhòe ra.

Hàng chữ run lên, uốn éo như con rắn độc. Nó phóng tới, mổ vào giữa tim tôi.

"Xử phạt:  Trần Văn Bé - Tử Hình"

Giọng nói run rẩy của tôi vang lên như âm thanh từ một cơn ác mộng, “Má nhận tin này hồi nào?”

Mẹ chồng tôi còn mếu máo thì cô em chồng nghẹn ngào đỡ lời, “Từ tháng Năm, nhưng Má chưa dám nói với chị…”

Mẹ chồng tôi chùi nước mắt, phân trần, “Má tính đi kiếm cho ra mộ chồng con rồi mới nói cho con biết. Bởi vậy, hổm rày con đòi đi kiếm chồng, Má biểu để Má kiếm cho. Má sợ con chịu không nổi khi đối mặt với tụi công an… Con ơi, bữa đưa tin tụi nó làm dữ lắm! Công an phường, công an quận, công an thành phố kéo lại cả bầy. Tụi nó đưa ra tờ giấy này ra, biểu Má ký nhận. Lúc đầu Má không chịu ký, vì Má nghĩ ký nghĩa là chấp nhận rằng thằng Hai đáng bị xử tử. Tụi nó hăm dọa Má, nhắc tới thằng Ba còn đang bị tù ngoài Bắc. Má sợ tụi nó đem thằng Ba ra bắn luôn nên phải cắn răng ký tên lãnh án tử hình của con mình. Má đứt từng khúc ruột, con ơi…” Mẹ chồng tôi nghẹn lời, bà khóc nức nở.

***

Thế là hết!

Anh Bé đi tù tháng 6 năm 1975, sau đó tôi chỉ nhận được ba lá thư của anh. Lá cuối cùng đề tháng 2, 1976, gởi từ trại Suối Máu, Biên Hòa. Sau đó, anh bặt tin.

Tôi chờ đợi mòn mỏi, lên xuống trạm công an cả chục lần, hỏi gì họ cũng trả lời không biết. Cuối cùng, tôi nhất quyết làm đơn khiếu nại.

Lúc đó, tôi và sáu đứa con - đứa lớn nhất mười một tuổi, đứa nhỏ nhất mới lên hai - đang nương náu trong một mảnh vườn hẻo lánh tại Mỹ Tho. Vì vậy, tôi dùng nhờ địa chỉ nhà Mẹ chồng ở Sài Gòn. Cả chục lá đơn gởi tới trại tù Suối Máu đều như biến vào khoảng không, chẳng còn một chút tăm hơi.

Trại tù không trả lời thì tôi hỏi cấp trên; tôi mày mò kiếm địa chỉ của hai “Tòa Án Nhân Dân” ở Sài Gòn và Hà Nội rồi gởi đơn tới cả hai nơi đó. Thời miền Nam vừa mất, cây củi cũng mắc, mua một con tem là thâm vào tiền mua gạo cho các con, nhưng tôi vẫn cắn răng bớt miệng con để gởi đi mấy chục lá đơn, từ tháng này qua tháng khác.

Cuối cùng, nhà cầm quyền Cộng Sản cũng phải trả lời. Ngày 10 tháng Năm, 1977, họ gởi thư về nhà Mẹ chồng tôi. Để xác nhận rằng: họ đã giết chồng tôi.

Cô em chồng đưa tay đỡ vai tôi cho tôi khỏi gục xuống. Sáu đứa con sợ hãi chạy lại vây quanh, tôi chỉ nói được mấy tiếng “Ba chết rồi!” rồi khóc ngất. Lũ trẻ thấy vậy cũng khóc òa lên, thằng lớn nhất ôm lấy con em kế, bệu bạo nói “Vậy là Ba không về nữa!”

Sau vài ngày ở nhà Mẹ chồng, tôi lại phải gượng đứng lên, dắt đám con về căn chòi trống huơ, trống hoác, nóc dột, tường xiêu ở Mỹ Tho.

Mẹ chồng tôi sợ tôi chết thì bà sẽ không nuôi nổi bầy cháu, còn cha mẹ ruột thì lo tôi sẽ phát điên. Tuy vậy, Mẹ chồng tôi không đủ sức cưu mang bảy mẹ con tôi và cha mẹ tôi cũng chỉ dám ghé thăm vài ngày rồi đi về. Thời đó, mỗi tuần người dân đều phải đi họp tổ dân phố để công an điểm danh, ai đi đâu cũng phải xin phép, vì thế không người nào dám đi lâu, sợ công an kiếm cớ làm khó dễ.

Ngày mẹ chồng tôi làm lễ phát tang anh Bé ở Sài Gòn, tôi chỉ đủ tiền mua ba tấm vé xe cho thằng con trai lớn nhất, đứa con gái út, và tôi. Họ hàng phần vì không có tiền đi xa, phần vì sợ liên lụy với “tử tù” nên không ai dám tới.

Ngoài ba mẹ con tôi, đám tang chỉ có mẹ chồng và hai cô em ruột của anh. Sau ngày giao bản án tử hình, công an khu vực dòm ngó nhà chồng tôi như chồn cáo rình chuồng gà; vì thế, ngay cả trên bàn thờ của anh chúng tôi cũng không dám chưng bày nhiều.

Di ảnh của anh đứng sau dĩa trái cây lỏng chỏng, một bát nhang hiu hắt và hai cây đèn cầy leo lét. Trước bàn thờ, bốn người đàn bà đầu tóc rũ rượi quỳ bên hai đứa nhỏ xanh xao, ngơ ngác. Chỉ có tiếng nhà sư đọc kinh nho nhỏ, còn chúng tôi phải kềm tiếng khóc trong lồng ngực, nuốt ngược nỗi đau vào lòng. Anh Bé sống ở khu xóm đó từ nhỏ, ai cũng biết và thương mến anh, cho nên bà con lối xóm kéo đến rất đông, nhưng không ai dám bước vô nhà. Họ giả làm kẻ tò mò đứng trước cửa, nhưng suốt buổi lễ họ lén dùng tay áo quẹt nước mắt, và nhìn chúng tôi bằng những cặp mắt đỏ hoe, ứa tràn thương xót.

Tôi quỳ ở đó, dật dờ nửa mê, nửa tỉnh.

Những hình ảnh cuối của anh trở về trong đầu tôi.

Chiều 30 tháng 4, 1975, anh lái xe Jeep đến nhà cha mẹ tôi ở thành phố Mỹ Tho, nơi tôi đem sáu đứa con thơ từ khu cư xá sĩ quan ở Bình Dương về nương nhờ trong cơn hỗn loạn.

Tóc anh rối bời, mặt anh bơ phờ, nhưng anh vẫn mặc quân phục trên người. Anh ôm hôn từng đứa con, rồi nói với Ba tôi, “Ba cho con gởi vợ con của con.”

Ba tôi đã nghẹn ngào hứa, “Con đừng lo, vợ con của con ở đây với Ba Má, rau cháo có nhau. Con đi đâu cũng vậy, khi con trở về đây, vợ con của con sẽ còn đầy đủ.”

Trước mặt Ba Má tôi, anh ngại ngùng không ôm tôi lần cuối. Anh chỉ xiết tay tôi, dặn dò tôi giữ gìn sức khỏe và cố lo cho các con. Tôi quá bàng hoàng, lo sợ nên chỉ biết nghẹn ngào nhắc anh hết sức giữ gìn tánh mạng. Anh lưu luyến thêm một lát rồi quay đi.

Tôi đứng chết lặng ở bậc cửa.

Anh leo lên xe, rồ máy. Xe chuyển bánh. Chạy đi. Xa dần. Rồi mất hút.

Tôi cảm thấy một phần thân thể mình vừa bị chặt lìa ra…

Sau này tôi mới biết anh đã lái xe về nhà mẹ ruột ở Sài gòn và trốn ở đây cho tới ngày đi trình diện “học tập cải tạo”.

Mới hai năm qua mà tôi đã mất anh, con tôi đã mất cha. Người ta giết anh vì tội “trốn trại cải tạo nhằm mục đích phản Cách Mạng.” Độc ác hơn nữa là họ không thông báo gì cho thân nhân. Mạng sống của anh, của những người tù, và nỗi đau của gia đình họ, đối với người cầm quyền không có ý nghĩa gì!

Mãi hơn một năm sau từ ngày bắn anh, có lẽ vì mấy chục tờ đơn tìm chồng của tôi, họ mới gởi Tờ Trích Lục Án Hình về nhà. Tờ giấy đánh máy một cách cẩu thả vào tháng 5, 1977 đã đề sai ngày của phiên toà xử tử anh là 10 tháng 4, 1977, trễ một năm.

Tôi ngước nhìn anh trong uất nghẹn. Anh cũng đang đau đáu nhìn tôi. Có phải mắt anh long lanh vì nỗi đau cắt ruột, hay chỉ là màn lệ chan hoà từ mắt tôi?

***

Sau khi về lại Mỹ Tho, tôi nằm bẹp trên võng, không khóc nhưng nước mắt nóng hổi tuôn ra như vắt hết sức sống của tôi.

Lòng tôi nặng trĩu niềm đau, nỗi hận. Trong đầu tôi vang vang những lời oán trách số phận, nguyền rủa bọn giết người. Chồng tôi cả đời thanh liêm, đi lính Việt Nam Cộng Hoà tới lon Thiếu Tá mà vẫn không mua được cho vợ con một căn nhà riêng, tại sao anh phải chết tức tưởi như vậy?

Làm vợ lính, tôi đã nhiều lần nghĩ đến việc chồng tử trận, nhưng thà anh hy sinh trong cuộc chiến để các con còn được hãnh diện, để tôi còn được an ủi.

Bây giờ chiến tranh chấm dứt rồi, chồng tôi đã phải mang thân tù tội, tại sao người ta còn giết anh? Tại sao họ đẩy mẹ con tôi thành “thân nhân của tử tội”, lớp người cô đơn, khốn cùng nhất trong cái xã hội đầy móng vuốt này?

Ngày tiếp ngày trôi qua trong cơn đau, mí mắt tôi sưng vù, rát bỏng, tiếng các con réo gọi nghe xa xôi như vọng lại từ một thế giới khác, tôi nghe nhưng không thể nào trả lời nổi. Tôi nằm đó, dật dờ giữa hai bờ sống, chết.

Một buổi trưa, không biết là bao lâu sau, tiếng khóc thảm thiết của hai đứa con nhỏ nhất kéo tôi ra khỏi cơn mê sảng. Tiếng than đói của hai đứa bé xoáy vào tim tôi, nhắc rằng tôi còn bổn phận với sáu đứa trẻ thơ.

Tôi ngồi bật lên, quơ tay tìm con và ôm xiết chúng vào lòng. Giữa ban ngày mà trước mắt tôi tối đen. Không! Con không thể mù, con không thể chết! Xin Trời giúp con! Xin cứu con để con của con được sống!

Nhờ Trời thương và chắc anh vẫn theo phù hộ nên tôi hết bệnh, dù không có thuốc men gì. Tôi lết ra vườn, mò mẫm trồng rau, trồng khoai nuôi con.

Năm tháng rơi lặng lẽ như những sợi tóc của tôi rụng tơi bời trong cơ cực. Tay chân tôi khẳng khiu, trầy trụa, bầm dập, nhưng những vết thương đó không thấm thía gì với cái đau ở trong lòng.

Ở miệt vườn hẻo lánh, sự kìm kẹp của chính quyền địa phương khủng khiếp gấp mấy lần ở những thành phố lớn; công an mà dòm ngó, trù dập ai thì người đó không ngóc đầu lên nổi. Trong đám dân quê mùa, chất phác, gia đình có thân nhân là sĩ quan “Ngụy” đang ở tù đã là một điều ghê gớm, nói gì tới chuyện là con cái của người tử tội.

Thời đó, nhà trường cứ vài tuần lại bắt học sinh khai lý lịch, vì thế mỗi niên học các cháu đem về mấy chục tờ lý lịch nhờ tôi viết. Lúc nào tôi cũng khai là “Cha mất tích”, và các con tôi được dạy đi dạy lại rằng không bao giờ hé môi với ai về cái chết của cha.

Vậy mà cũng có lần chúng tôi xém bị lộ!

Tết Trung Thu năm 1977, trường học phát quà cho con của gia đình liệt sĩ. Thằng bé thứ Năm nhà tôi mới vô lớp Một, không biết nghe ai giải thích “liệt sĩ” là những người đi lính đã chết, thế là nó tính chạy lên lãnh quà.

May mà cô giáo của nó quen với tôi, cô thấy nó nhớm đứng lên, vội đè vai bắt nó ngồi xuống. Hôm đó thằng nhỏ tủi thân và thèm quà, khóc tức tưởi cả buổi chiều. Tôi xót cho các con ngây thơ mà phải chịu quá nhiều thiệt thòi, dồn nén, phải sống trong hất hủi, phải thèm khát từ miếng ăn tới tình thương. Đêm đó, tôi khóc trắng.

***

1979.  

Nước ngập cao. Hút mắt chỉ thấy làn nước đục ngàu, lềnh bềnh rác rến. Những cây chuối chỉ còn lú lên chút ngọn run rẩy bên những cành mận trụi lủi, khẳng khiu đang vật vã trong gió.

Trời vẫn mưa! Mưa như xối nước.

Trên mấy bộ ván chồng lên nhau, tôi và sáu đứa nhỏ nằm, ngồi lủ khủ bên đống chăn mền, quần áo, bếp lò, chén dĩa - tất cả tài sản còn lại của bảy mẹ con. Cơn bão đã kéo dài gần một tháng, nước sông Tiền dâng ngập hết ruộng vườn, cuốn băng đi công sức mẹ con tôi vật lộn với mảnh đất này trong gần bốn năm trời kể từ tháng Tư, 1975.

Mưa càng lúc càng nặng hột. Gió xoáy mạnh, rít lên như oán trách, như thay tôi than tiếc cho công sức của mẹ con tôi đang trôi theo giòng nước.

***
Như lời đã hứa, sau tháng 4, 1975, Ba Má tôi hết lòng bao bọc mẹ con tôi. Nhưng vai gầy không thể chống được cả bầu trời đang đổ xụp, sức lực của hai cụ già không thể nào đỡ nổi trận hồng thủy của cuộc đổi đời.

Nhà cầm quyền Cộng Sản bắt cha mẹ tôi phải nạp hết ruộng cho Hợp Tác Xã rồi mỗi tháng chúng phát cho mấy ký gạo vừa đủ cho hai người già sống cầm hơi.

Bảy mẹ con tôi không có tên trong “hộ khẩu” nên trở thành những người “ngoài pháp luật”, sống lây lất bên lề xã hội. Mỗi ngày, Ba Má tôi thu mót hoa màu trong vườn, rồi đem bán để mua gạo chợ đen về nuôi cháu.

Sau mấy tháng tôi không thể chịu được cảnh cha mẹ khổ sở, lo lắng, chạy ăn từng bữa vì mình nữa. Tôi đành nuốt nước mắt đem các con về ở tại năm công đất vườn do ông nội của chồng tôi chia cho anh từ thời anh còn trẻ.

Ngày mẹ con tôi dắt díu nhau ra đi, tôi không dám quay đầu nhìn lại, sợ ba má tôi thêm nát lòng. Tôi cắm đầu bước, nước mắt ràn rụa. Tôi gọi tên anh, xin anh giúp sức cho người vợ mỏng manh, yếu ớt, chưa bao giờ biết cầm cái cuốc, cái cày…

Khu vườn thiếu người chăm sóc chỉ có thưa thớt vài cây mận, bà nội chồng thương nên cho thêm ba công ruộng ven để tôi kiếm gạo nuôi con.

Tôi nắm một đầu chiếc gầu giai, đầu bên kia thằng Hai và con Ba - đứa mười một tuổi, đứa tám tuổi mím môi giữ. Trời nắng như đổ lửa, mặt tôi ướt đẫm mồ hôi; phía bên kia, dưới vành nón lá rách nát, hai đứa con tôi mặt đỏ bừng như lên cơn sốt. Chúng tôi múc từng gàu nước từ con rạch cạn, tạt vào những cây lúa đèo đẹt đứng gục đầu trên mảnh ruộng nứt chân chim.

Mùa đầu tiên trời hạn, sau khi trả tiền mướn trâu, tiền công cấy, tiền phân bón, tiền thuốc trừ sâu, tiền đóng thuế cho nhà nước, chúng tôi không còn một hột lúa mà ăn, đành đi vay mượn chờ năm tới.

Mùa kế, tôi chỉ dám mượn tiền để trả công cày rồi cố gắng tự làm đủ thứ việc, hy vọng cuối mùa thu được chút gạo sống qua ngày. Tôi học cách nhổ cỏ, rải phân, cấy lúa. Ngày ngày tôi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Có lần tôi khiêng bình thuốc trừ sâu to hơn một vòng ôm đi xịt quanh ruộng. Bình thuốc lớn che khuất mặt, tôi không thể thấy thuốc xịt đều hay không nhưng vẫn nghiến răng tha cái bình đi xịt hết một vòng. Làm xong, tôi run run leo lên bờ ruộng thì bình thuốc đẩy tôi té ngược ra sau. Tôi nằm ngửa như con nhái bén ôm bình thuốc to tướng, hên là đất ruộng không quá cứng nên tôi không bị thương. Lần đó, đám con tôi phải xúm lại kéo cả bình và tôi lên bờ ruộng.

Không hiểu vì cày không sâu, cấy không khéo, phân không đủ, thuốc không đều, nước không đẫm, hay vì vận mạng của chúng tôi lúc đó đang tối tăm nên đất ruộng cũng không chịu hợp tác với mẹ con tôi. Tôi thất thu ba năm liên tiếp, nợ sau chồng lên nợ trước, cuối cùng tôi phải thế ruộng để trừ nợ, mẹ con rút về kiếm ăn trên mấy công vườn xơ xác.

Khai mương, đào đất, trồng cây, tưới bón, tất cả chỉ có tôi và hai đứa con lớn lăn lộn làm, còn mấy đứa nhỏ đành bỏ liều trong lều.

Có một lần tôi hái mận đem ra chợ bán, đường xa nên mãi tối mịt mới về. Về tới nhà, thấy thiếu thằng Năm, tôi hoảng hồn chạy ra vườn, nhảy xuống mương tìm. Con mương không sâu lắm, chỉ để lấy nước tưới cây, nhưng cũng làm tôi lo lắng từ ngày mới về đây. Nước dưới mương ngập tới gần bắp vế, tôi vừa gọi tên con vừa khom người mò. Đụng thấy một vật tròn cứng như đầu người, tôi hét lên rồi vật ra chết giấc. Cũng may là lưng tôi dựa vô bờ mương nên tôi không ngộp nước và có con bé Ba chạy theo, nó vừa khóc vừa kéo tôi lên. Và may hơn nữa là cái vật tròn tròn đó chỉ là một cái gáo dừa chìm dưới mương, còn thằng Năm vẫn trùm mền nằm ngủ sau đống quần áo trong lều. Chắc nó đói quá nên lả đi, không lên tiếng khi tôi gọi.

Trăm ngàn khổ cực vậy mới thu được vài mùa mận, mà bây giờ cơn lụt lại phá tan hoang mảnh vườn, nguồn sống duy nhất của chúng tôi…

***
Cuối cùng nước lụt cũng rút để lại khu vườn đầy rác rến với những luống khoai bị nước san bằng và những gốc cây trụi lá, gãy cành. Chỉ còn vài cây chuối non, tôi chặt về bào mỏng bóp với muối cho các con ăn qua bữa.

Đói thì đầu gối phải bò, tôi lại bỏ liều các con ở nhà, qua Bến Tre đi buôn. Xứ dừa Bến Tre bạt ngàn cây trái nên dân bên đó khá giả, có lò nấu đường, làm xà bông. Tôi mua hàng đem về Mỹ Tho bán để kiếm chút lời.

Thời 1979-1980, trạm thu thuế mọc lên ở khắp nơi, như bầy rệp đói hút máu dân nghèo. Công an rình ở khắp các ngả đường, khám xét càng ngày càng gắt gao. Tiền lời chỉ đủ để đóng thuế nên người đi buôn phải trốn, nếu thoát thì kiếm được chút đỉnh, không may bị bắt là bị tịch thu hết hàng, đứt vốn.

Một mình tôi kiếm không đủ tiền rau cháo nên tôi phải dắt hai đứa con trai theo. Tôi cưỡi một chiếc xe đạp, hai đứa chở nhau trên chiếc xe đạp khác, làm bộ như hai anh em chở nhau đi học nhưng trong cặp chúng nhét đầy đường và xà bông.

Thằng Hai còn biết xoay xở chút ít, còn thằng Tư ngây thơ, tính tình lại nhút nhát nên nó rất sợ. Mỗi khi qua trạm gác, mắt nó nhìn thẳng phía trước, làm bộ bình tĩnh, nhưng ngón chân nó bấm xuống dép, cổ nó căng lên như sợi dây đàn. Tôi ngó mà đau như bị đâm vào tim.

Chuyến phà Bến Tre - Mỹ Tho chiều hôm đó đông nghẹt. Mặt trời đã xế nhưng vẫn tỏa sức nóng hừng hực làm cho những gói đường quấn quanh bắp chân, quanh bụng tôi thêm trĩu nặng. Tôi ì ạch dắt xe, nón lá che xùm xụp xuống mặt nhưng vẫn liếc mắt ngó chừng hai đứa đi phía sau. Chỉ còn một khúc nữa là vô trạm gác, ba mẹ con càng tách xa nhau như người xa lạ để nếu có bị bắt thì không bị dính cả chùm.

Tôi thoát qua trạm gác, đứng lại, làm bộ gỡ nón quạt để ngó lại tìm con. Thằng Hai vừa dắt xe đi ra, thằng Tư đang tiến vào trạm…
          
Bỗng nhiên cái cặp ở tay thằng Tư rớt xuống, những gói đường và xà bông văng tung tóe. Mắt thằng nhỏ mở lớn, hãi hùng, miệng há ra nhưng không dám khóc lên thành tiếng. Một tên công an bước tới, nắm lấy cổ áo nó. Mắt tôi hoa lên, ngực tôi nhói đau, tôi ngồi xụp xuống để khỏi té vật ra. Phà đã tới, đám đông ùn ùn xô nhau tràn tới, tôi đội xụp nón lên đầu rồi đành bước chân đi.            

Phà qua tới Mỹ Tho, thằng Hai mới dám chạy lại bên tôi, mếu máo, “Má ơi, thằng Tư bị bắt rồi!” Tôi ôm con, vuốt lên mái tóc cháy nắng khét lẹt rồi nói cứng, “Chắc họ không nhốt con nít đâu. Con đem đồ về nhà trước để tụi nhỏ khỏi trông, Má ở đây chờ em.”
          
Trời đã nhá nhem tối, tôi đang nghĩ cách quay lại kiếm con thì thằng Tư thất thểu bước ra khỏi phà. Lưng nó khom xuống, mặt nó thất thần. Vừa thấy tôi, nó phóng tới ôm riết rồi khóc nức nở, người nó run bần bật trong những cơn nấc nghẹn ngào. Nước mắt tôi cũng rớt như mưa. Tôi hận mình bất tài, hận số phận mình khốn khổ để tuổi thơ của các con quá bi thảm và tủi nhục. Tôi lại ngửa mặt gọi anh. Anh ơi, hãy giúp em cứu các con ra khỏi cảnh khổ hận này.

Từ bữa đó, tôi không dám bắt các con đi buôn lậu nữa. Tôi đi tới từng vườn trái cây mua rồi chở đi bỏ cho những bạn hàng ở Sài gòn. Mỗi ngày tôi dậy từ 3 giờ sáng, cột mấy giỏ trái cây lên xe đạp rồi chở ra bến, đón xe đem về Sài Gòn.

Tiền xe hai chuyến đi về mắc mỏ mà tôi thì sức yếu, vốn nhỏ nên lời rất ít. Thấy dân nghèo tứ xứ bày bán đủ mọi loại hàng trên lề đường trước cửa chợ, tôi quyết định không bán sỉ nữa mà bán lẻ để kiếm lời khá hơn.

Tôi trải đại một tấm ny lông xuống lề đường, bày một ít trái cây làm mẫu, phần còn lại để trong giỏ gởi mấy cửa tiệm ở mặt đường, có tiệm thương tình cho gởi, có tiệm bắt trả tiền. Tôi lê la từ chợ Cầu Ông Lãnh tới chợ Tân Bình, chợ An Đông, đôi khi gặp bạn bè cũ, tôi cúi gầm mặt dưới vành nón, không dám ngước lên.

“Ủy Ban Trật Tự Thành Phố” nói rằng bán hàng trên lề đường gây hỗn loạn nên ra lệnh cấm, nhưng người dân đói quá cứ làm liều.

Từ cụ già tám mươi tuổi đến đứa bé sáu, bảy tuổi, từ người lành lặn tới anh thương phế binh, người trải tấm nylon, kẻ đẩy cái xe tự đóng bằng ván mục, người bưng cái rổ, kẻ đội cái mâm, chúng tôi đứng ngồi la liệt trên khắp các ngả đường để kiếm sống.

Ngày nào bán được khá, ngoài mấy lít gạo tôi còn mua về cho con vài ổ bánh mì. Trời sụp tối tôi mới về đến nhà, nhìn chúng chia nhau nhai ngấu nghiến một cách hết sức thèm thuồng, tôi có thêm sức mạnh để tiếp tục lăn lộn trên vỉa hè.

Tuy nhiên, những ngày vui thường ít hơn những ngày buồn. Rất nhiều khi đang ngồi bán thì người ở đầu đường la, “Công an!” và mọi người vùng lên chạy. Những người bán mặt hàng gọn, nhẹ thì túm tấm trải lại, ôm vào người rồi biến vào trong những ngõ hẻm. Tôi quảy đống trái cây nặng hơn nên thường lẹt đẹt phía sau và bị công an hốt. Công an đem tôi về “Trụ Sở Ban Quản Lý Chợ”, bắt ký tên vào biên bản rồi tịch thu hết hàng.

Tôi nhớ tới lời Mẹ chồng tôi thường an ủi tôi rằng “trời sanh voi, sanh cỏ” mà muốn gào vào lên sao các người ác vậy, đã giết chồng tôi mà còn không chừa cho mẹ con tôi một cọng cỏ để ăn!

Những ngày bị mất hàng, tôi trở về nhà với hai tay không, thê thảm như người vừa bị cướp. Mấy mẹ con phải ra vườn mót những củ khoai đèo đẹt và hái rau dại về ăn. Ngồi nhìn đám con chia nhau dĩa rau luộc chấm nước muối, lòng tôi đau nhói. Mới ngày nào tôi là cô dâu hai mươi tuổi, ngây thơ, lãng mạn cùng chồng mơ về một căn nhà ấm cúng với đàn con ngoan ngoãn, cười giỡn rộn ràng. Bây giờ, đàn con tôi gầy ốm, buồn rầu còn tôi thì da đen xạm, tay chân chai sần, tóc tai xác xơ như lòng tôi tan nát.

Sau nhiều lần bị công an bắt, vốn liếng sắp cạn thì tôi may mắn gặp được quý nhân.

Chị là vợ của Trung Tá Kh. ở cùng Sư Đoàn 5 với chồng tôi, và hai gia đình đã ở gần nhau trong Cư Xá Sĩ Quan Ngô Quyền tại Bình Dương trước năm 1975. Không ngờ sau cuộc đổi đời, chị cũng dắt con về ở ngay bên cạnh xã tôi. Con út của chị học chung một lớp với con tôi, có lẽ cùng thuộc diện con “tù cải tạo” nên chúng thân và tâm sự với nhau. Kể qua kể lại, té ra là hàng xóm hồi xưa, con tôi vui mừng về báo cho tôi và tôi đã tìm thăm chị.

Hầu hết các con của chị Kh. đã lớn nên kiếm được việc làm lặt vặt để sống qua ngày. Thời đó, phong trào đan mây tre và làm nón để xuất khẩu ra nước ngoài lên mạnh, chị giới thiệu cho tôi lãnh nón về thêu ăn công. Đêm nào tôi và con gái lớn cũng ngồi thêu bên cây đèn mù mờ, nước mắt sống chảy ròng ròng vì dùng mắt quá độ, nhưng số tiền công rẻ mạt chỉ giúp chúng tôi kiếm thêm chút cháo. Chị Kh. có người thân ở Huế nên chị cũng làm đại lý cung cấp nón lá Huế cho các sạp bán lẻ, thấy vậy chị lại thương tình cho tôi lấy nón về bán, bán xong mới đưa lại tiền vốn cho chị.

Thời đó, chợ huyện Tân Hiệp họp từ một, hai giờ đêm để người ta kịp mua hàng đem lên Sài Gòn bán lúc sáng sớm. Khoảng mười một giờ đêm là tôi mò mẫm dắt xe đạp ra khỏi nhà, trên yên sau là gói hàng lặt vặt như tiêu, tỏi, xà bông, bột ngọt, phía trên là chồng nón. Chiếc xe đạp cũ nát run rẩy bò trên con đường đất gồ ghề, hai bên là ruộng, côn trùng ếch nhái kêu nỉ non, đom đóm bay lập lòe như mắt quỉ.

Hồi còn con gái, tôi rất sợ ma, nhưng lúc đó tôi chỉ còn sợ… người. Trời tối đen, chỉ nhìn thấy một khúc đường ngắn lờ mờ trước mặt, tôi vừa đạp xe vừa cầu xin anh phù hộ cho tôi không bị cướp.

Ra tới chợ, có những đêm vừa bày hàng xong thì trời đổ mưa, tôi lấy hết nylon che cho hàng hóa rồi ngồi chịu trận trong cái áo mưa đầy lỗ lủng, nghe từng giọt nước lạnh như kim chích trên lưng, nghe gió quất từng cơn trên gương mặt ướt đẫm nước mưa hòa nước mắt.

Sau những đêm ế ẩm, sáng ra tôi phải đạp xe tới từng nhà quanh chợ, mời người ta mua nón dùm. Các bà không ai biết chuyện chồng tôi bị xử tử, nhưng họ biết tôi là vợ tù nên rất thương tôi. Họ cũng chẳng dư dả gì nhưng người mua dùm cái nón, người cho củ khoai, ly nước, người dúi cho tôi chút trái cây để đem về cho các con.

Những ngày tôi bán ế, không đủ tiền trả vốn số nón đã lấy của chị Kh., chị chỉ mắng yêu, “Thôi, không đủ tiền thì thím để bữa sau bán tiếp rồi trả, chớ không lẽ bây giờ tui bắt xác thím được ha…”

***

Bữa đói bữa no, bịnh không có thuốc nhưng nhờ Trời thương, đám con tôi vẫn lớn như cây dại mọc ở bờ rào.

Các cháu biết thân phận mình nên rất ngoan và chăm học. Ngoài giờ học, chúng đi câu, đi chạ, đi lưới để kiếm thêm thức ăn. Tuy vậy, chúng càng lớn thì tiền học, tiền sách vở càng tốn kém, rất nhiều lần các cháu bị thầy cô rầy la vì xài chung chỉ một cuốn vở cho mọi môn học, nhưng các cháu không hề than van.

Những ngày tôi đi buôn bán về trễ, lòng tôi ấm lại trước cảnh các con quây quanh ngọn đèn dầu leo lét, mấy đứa nhỏ tập đọc ồn ào, nhưng mấy đứa lớn vẫn ráng chăm chú giải toán, học bài.

Dù không có tiền đi học thêm, dù sự giảng dạy ở vùng quê trồi xụt bất thường, ba đứa con lớn của tôi đã đạt được điểm cao trong kỳ thi tốt nghiệp trung học. Tuy vậy, các cháu nhưng chỉ được trúng tuyển vào những trường dạy nghề như Trung Học Lâm Nghiệp ở Sông Bé, Trung Học Sư Phạm ở Tiền Giang, và Trung Học Xây Dựng ở Vĩnh Long. Dù sao, đây là một điều rất quan trọng cho cuộc đời của hai cháu trai bởi vì nếu không được đi học tiếp, các cháu sẽ phải đi “nghĩa vụ quân sự”, bị gởi đi đánh nhau ở vùng biên giới Tàu hay Campuchia.

Tôi đã thề cùng vong linh của anh rằng tôi sẽ làm mọi cách để các con chúng tôi không bị đi bộ đội. Chỉ tưởng tượng các cháu phải mặc cùng bộ quân phục, đứng cùng hàng ngũ, và đem thân đi chết vì chính kiến của những người đã giết cha các cháu, tôi rùng mình. Nếu bị kêu đi “nghĩa vụ”, các cháu chỉ còn nước bỏ làng xóm đi sống lang thang, dật dờ như rất nhiều thanh niên thời đó.

Dù trúng tuyển vào trường, nhưng sau khi tốt nghiệp, cả ba cháu không có tiền chạy chọt, không quen biết ai, nên bị gởi đi làm việc ở những nơi xa xôi, hẻo lánh. Các cháu chán nản quay về nhà, làm ăn lặt vặt qua ngày. Cuộc sống tuy đỡ đói khổ hơn thời các cháu còn nhỏ, nhưng đầy bế tắc, không có tương lai.
 
***

Từ đầu thập niên 1980 đã có lác đác sĩ quan đi tù được thả về. Mỗi lần nghe tin người quen được về với vợ con, tôi mừng cho họ nhưng nghe lòng càng thêm cô đơn, cay đắng.

Chồng tôi sẽ không bao giờ trở về, mà thân xác anh cũng vẫn còn lạc lõng ở tận phương nào. Mẹ chồng tôi đã già yếu, không còn tiếp tục đi tìm mộ anh được nữa, còn tôi thì lăn lộn kiếm gạo cho bầy con nên không thể hết lòng tìm kiếm. Vì thế, ngoài nỗi khổ đói nghèo, nỗi hận mất chồng, nỗi sợ hãi xã hội nhiễu nhương, và nỗi buồn đơn chiếc, tôi còn mang cảm giác nặng trĩu tội lỗi của người vợ vô tình.

Tôi không thể ngờ rằng năm 1984, tám năm sau khi anh mất, anh đã tìm về với mẹ con tôi.

Hôm đó, tôi đang lúi húi ngoài vườn thì chị Hai tôi bước vô cổng. Vừa tháo nón lá quạt lia lịa, chị vừa kêu, “Dì Ba! Dì Ba ơi! Có tin dượng Ba!”

Tôi quăng cuốc chạy ra, chị chụp tay tôi, hổn hển vừa thở vừa nói, “Mèn ơi, thiệt không ngờ! Em nhớ cô giáo H. dạy trong trường chị chớ? Chị với cổ thân nhau, lúc người này có chuyện thì người kia dạy dùm. Mới cách đây mấy bữa, chị coi lớp dùm cổ để cổ đi hốt cốt người em trai tên Thịnh, chết trong tù cải tạo. Cổ đi về kể chuyện cho chị nghe, cuối cùng cổ nói thêm ‘Kế sát bên mộ em tui có ngôi mộ của một ông chết cùng ngày. Tội nghiệp, chắc gia đình ổng đi vượt biên hết nên không ai chăm sóc, cỏ mọc tùm lum!’ Trước giờ chị ít để ý chuyện của ai, nhưng bữa đó như có gì xui khiến nên chị hỏi tới, ‘Vậy chứ bà có nhớ tên người đó không?’ Cổ nói ‘Tên là Trần Văn Bé, sinh ở Long An.’ ”

Giữa trưa nắng mà tôi sống lưng tôi lạnh toát.

Tôi đã nghe các bạn tù của anh kể lại rằng sau khi bọn cai tù bắt được anh và đem trở về trại Suối Máu, bọn chúng còn chuyển về một người đã vượt trại ở Hóc Môn tên là Thịnh. Cả hai bị nhốt vào connex và bị bắn trong cùng một ngày, chồng tôi vào buổi sáng, anh kia vào buổi chiều.

Như vậy là những người bạn tù đã chôn hai anh kế bên nhau, và đã thương xót lập bia để chỉ đường cho thân nhân các anh mai sau đi kiếm. Trong gần bốn triệu người dân Sài gòn, cơ may hiếm có hay hồn thiêng của hai anh đã đem chị tôi và chị của anh Thịnh đến với nhau, để cho họ thân thiết và tin cậy nói cho nhau nghe những nỗi đau sâu kín của gia đình những người lính Cộng Hòa gãy súng.

Có lẽ hồn thiêng của chồng tôi níu chân chị H. nên chị đã để ý tới nấm mộ hoang khuất trong cỏ rậm, và đọc được cả những chi tiết viết bằng tay mờ nhạt trên miếng gỗ đã tám năm trời phơi mưa nắng.

Mẹ chồng tôi lập tức lo việc xin giấy phép đi đường, giấy phép cải táng và kiếm nhà quàn lo dịch vụ. Ngày đi bốc mộ, tôi và Mẹ ruột tôi từ Mỹ Tho về Sài Gòn cùng đi với Mẹ chồng, cậu ruột của chồng, và một cô em chồng.

Nhờ chị của anh Thịnh đã chỉ đường rất kỹ nên chúng tôi tới mộ khi mặt trời chưa đứng bóng. Cỏ dại đã được phạt đi nên chúng tôi thấy ngay ngôi mộ có tấm bia bạc phếch đứng chơ vơ trong nắng. Có lẽ đây là khúc cây tốt nhất mà các bạn tù của anh đã lựa, có lẽ họ đã khắc tên anh bằng cả tấm lòng, có lẽ vì mộ nằm ở khu đất cao và khô ráo, và có lẽ hồn anh còn quanh quẩn nên tấm bia vẫn còn đứng vững và những giòng chữ vẫn chưa phai sau tám năm hoang lạnh.

Người ta bắt đầu đào, tiếng bình bịch của cuốc bằm xuống đất dội bưng bưng vào óc tôi làm tôi choáng váng, phải ra ngồi dựa vào một gốc cây. Nấm mộ không sâu nên chỉ một lát là chạm đến cái hòm thô sơ, bể tan sau vài nhát cuốc.

Tôi vẫn ngồi dưới gốc cây, hai mắt mở trừng trừng. Tôi thấy như hồn tôi tách khỏi thân xác, bay là là trên cao nhìn mọi người đang khóc và tôi đang ngồi sững sờ như hóa đá. Từng khúc xương được bốc lên, mẹ chồng tôi nhìn bộ răng và nói rằng đúng là anh với hàm răng thiếu một chiếc ở góc trong. Khi mẹ kêu tôi tới nhận diện chồng, tôi mới lảo đảo đi tới gần mộ. Bên cạnh cái hộp sọ đã bể, tôi thấy chiếc áo sơ mi sọc do chính tôi sắm cho anh ngày xưa nằm cạnh sợi dây nịt của lính. Có lẽ anh em bạn tù đã thu nhặt túi đồ của anh và chôn theo anh. Tới lúc đó nước mắt tôi mới có thể trào ra. Cuối cùng thì em cũng đã tìm được anh rồi!

Sau khi thiêu cốt, Mẹ chồng tôi đề nghị đem gởi vào chùa ở Phú Lâm. Tôi đồng ý vì ở Sài Gòn dù sao cũng an toàn hơn là ở Mỹ Tho trong ngôi nhà xiêu vẹo, chông chênh của mẹ con tôi.

****

“Mẹ có nhà không con?”

Đang loay hoay đếm nón để khuya đem đi bán, tôi chạy vội ra cửa vì giọng nói đầy vẻ hái hức của cô bạn thân, học chung từ nhỏ.

Vừa thấy tôi, H. níu tay kéo ngồi xuống bậc cửa, móc trong túi áo ra một tờ báo được xếp gọn. Với vẻ mặt hết sức trang trọng, H. giở báo, chỉ vào một bản tin nhỏ với tựa đề : Thông Cáo Về Việc Làm Hồ Sơ Xuất Cảnh Cho Những Người Từng Đi Học Tập Cải Tạo.
          
Hai chúng tôi chúi đầu vào đọc. “Những người từng đi học tập cải tạo trên ba năm sẽ được làm hồ sơ đi Mỹ, ngay cả vợ con của những người đã chết trong trại cũng được đi.”

Run run, tôi hỏi H. “Bà nghĩ tin này thiệt không?”

 “Thiệt mà! Ở trên Sài Gòn người ta xác định rồi, mấy người bạn ông xã tui đang làm đơn rần rần kìa!”

Thế là chiều hôm đó tôi mở cái hộp sắt, lấy ra tờ Trích Lục Án Hình vừa coi lai vừa van vái chồng tôi.

Năm đó là 1988, như vậy chồng tôi bị giết đã mười hai năm. Nước mắt rơi lã chã, tôi lại kêu anh. Anh ơi! Anh giúp em cứu các con ra khỏi nơi này.

Mẹ chồng tôi nghe tôi kể chuyện làm đơn xin đi Mỹ, bà chép miệng, “Làm đơn thì phải khai ra cái chuyện chồng con bị tử hình. Tụi công an xã mà biết thì giống như khui ổ rắn. Má sợ các con mà đi không được, sau này sẽ khổ hơn…”    

Tuy nhiên lòng tôi đã quyết, đây là cơ hội duy nhất để cứu con tôi, điều mà tôi ước mơ từ mười mấy năm nay. Với sự giúp đỡ của vợ chồng bạn, tôi xin mẫu đơn, điền chi tiết, đính kèm bản sao của bản án tử hình rồi đem nộp ở Ty Ngoại Vụ Tỉnh Tiền Giang. Gia đình H. và chúng tôi đều được xếp vào danh sách H.O. 7.

Nhưng chỉ mấy tuần sau tôi nhận được thư từ Sở Ngoại Vụ ở Sài Gòn từ chối đơn của tôi với lý do: chồng tôi bị tử hình năm 1976, do đó anh không hội đủ điều kiện bị tù ba năm. Tôi nghiến răng rủa bọn Cộng ngu xuẩn, chồng tôi bị tử hình nghĩa là đi tù không bao giờ về, cớ gì mà không đủ điều kiện ba năm. Tôi viết thư khiếu nại nhưng Sở Ngoại Vụ từ chối, họ nói bắt buộc phải có ba năm ở tù. Đối với họ chết là hết, là không còn giá trị gì nữa.
            
Lúc đó, gia đình của những người sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà đã hồi sinh như ruộng hạn gặp mưa rào. Họ tụm năm, tụm ba, thì thào về chuyện làm đơn, chuyện nhận được giấy tờ chấp thuận cho đi. Họ len lén mua sắm, chuẩn bị cho ngày lên đường. Mọi người chạy qua chạy lại, bàn bạc, chia sẻ với nhau những tin tức góp nhặt được về đời sống bên Mỹ, về ước mơ tương lai. Lác đác tiếng cười đã trở lại trong những căn nhà lụp xụp, buồn hiu.  

Tôi đứng bên ngoài hạnh phúc đó, nhìn cảnh tượng đó bằng cảm giác của đứa con nít bị bỏ rơi. Các bạn của tôi cứ nghĩ là tôi không có hy vọng, nên họ tránh bàn chuyện đi Mỹ trước mặt tôi. Có nhiều khi họ đang nói mà thấy tôi đến là im bặt. Tôi ráng cười nói cho họ yên tâm dù lòng đau như cắt.         

Giữa năm 1991, H. lên đường đi Mỹ theo diện H.O. 7.

Đêm trước khi đi, hai đứa nói chuyện thật lâu. H. hứa sau khi sang Mỹ sẽ hết lòng giúp mẹ con tôi. Tôi bỏ bản sao của tờ đơn xin đi diện H.O., bản sao của tờ Trích Lục Án Hình, và lá đơn khiếu nại của tôi vào một cái phong bì lớn. Tôi thêm vào đó bản sao của tấm hình thờ của anh, mong có phép lạ để một trong những người Mỹ từng làm việc với anh ở Phòng Nhì tiểu khu Định Tường, Mỹ Tho ngày trước nhận ra anh mà cứu mẹ con tôi. Tôi van vái, “Anh ơi! Anh phù hộ cho H. đưa được đơn đến tay người tốt, cho họ mở lòng thương mà cứu vớt gia đình mình.”

Ngày chia tay, tôi hết gượng nổi, tôi khóc như mưa.

H. lên xe, đem theo hy vọng của chúng tôi. Xe chuyển bánh rồi từ từ xa dần.

Tôi đứng dưới ánh nắng gay gắt, nước mắt chứa chan, nhìn dõi theo chiếc xe mờ dần trong bụi khói rồi biến mất sau khúc quẹo.

***

H. đi rồi, tôi hồi hộp chờ đợi từng ngày.

Nhiều gia đình cựu sĩ quan ở trong vùng đã ra đi làm tôi càng thấy bơ vơ, khó kiếm người tâm sự. Khó hơn nữa là khi nghe tôi nói rằng tôi muốn khiếu nại với người Mỹ, hầu hết bạn bè đều chớp mắt ái ngại, rồi làm thinh.

Tôi hiểu rằng họ nghĩ người Mỹ sẽ không quan tâm đến một gia đình ở cách nửa vòng trái đất mà mối liên hệ với Mỹ đã bị tử hình từ mười sáu năm trước. Vài người bi quan còn không dám tin là H. sẽ giữ lời hứa với tôi. Họ lắc đầu nói, “Trước khi đi ai cũng hứa hẹn nhưng qua đó nhiều thứ phải lo quá nên người ta quên hết...”

Nhưng H. đã không quên mẹ con tôi.

H. có người anh chồng từng học Quốc Gia Hành Chánh và cũng là một sĩ quan VNCH. Năm 1975, anh giữ chức trưởng phòng kinh tế của Quân đoàn 4, anh cũng bị đi tù nhiều năm, sau đó anh vượt biển và định cư ở Mỹ.

Lá thư đầu tiên H. gởi về kể rằng anh ấy đã dịch lá đơn cùng với lá thư khiếu nại của tôi ra tiếng Anh rồi gởi cho cơ quan di trú Mỹ.

Từ đó, sáng nào tôi cũng thắp nhang trên bàn thờ chồng rồi ngóng chờ thư. Khoảng hai tháng sau, thư của H. đến.

Tôi dụi mắt, coi đi coi lại giòng chữ viết tay của H. để biết chắc là mình không lầm. “Văn phòng ODP bên đây chấp thuận hồ sơ của gia đình bà rồi! Họ sẽ liên lạc với Việt Nam để hoàn tất thủ tục.”

Hai tuần trôi qua với lo lắng, chờ đợi. Rồi tôi nhận được một lá thư của Sở Ngoại Vụ tại Sài Gòn yêu cầu tôi bổ sung giấy tờ về cái chết của chồng tôi.

Tôi đọc lá thư mà điếng hồn.

Như vậy là tờ Trích Lục Án Hình mà tôi đã nộp là không đủ. Chồng tôi bị xử theo luật rừng vào năm 1976, trong một phiên toà rừng tại trại tù, biết có biên bản hay không? Nếu có, biết họ có còn giữ lại sau mười sáu năm hay không?

Tôi lại mở cái hộp sắt và lấy tờ Trích Lục Án Hình ra soi xét. Góc trái của tờ giấy có hàng chữ “Tòa Án Quân Sự Quân Khu 7”.  Tôi sẽ đi tìm từ đầu mối đó.

Ngày đó, ở Mỹ Tho điện nước còn không có đủ, nói gì tới máy tính hoặc mạng internet. Thêm nữa, những hồ sơ về tù chính trị không bao giờ lộ ra ngoài nên tôi thông thể tra cứu, tìm kiếm được ở bất cứ nơi nào.

Cách duy nhất là tới thẳng Tòa Án Quân Sự Quân Khu 7 mà tôi không biết ở đâu. Tôi phải nhờ chị ruột và anh rể tôi đang ở Sài Gòn đi hỏi thăm dùm.

***

Một buổi trưa nắng gắt, có một người đi bộ từng bước xiêu vẹo trên con đường trơ trụi từ bến xe vô nhà tôi. Đó là chị Hai tôi!

Vừa tới nhà tôi, chị lột cái nón quạt lia lịa rồi vừa thở vừa nói, “Tìm thấy địa chỉ của Tòa Án Quân Khu 7 rồi! Đâu dè nó ở ngay tại Sài Gòn! Bây giờ, cái khó là em có dám vô đó hỏi họ về bản án không?”

Hai bàn tay tôi bỗng ướt nhẹp mồ hôi. Mười sáu năm qua tôi đã viết hàng trăm tờ lý lịch khai là chồng tôi mất tích, bây giờ tôi phải đối mặt với công an để nói rằng anh đã chết và tôi muốn kiếm bản án tử hình. Họ có túm đầu cả gia đình tôi về tội khai gian không?

Nhưng giấc mơ đi Mỹ của cả gia đình đã gần kề, cánh tay cứu vớt của người Mỹ đã đưa ra rất gần rồi, tôi nhất định phải nắm lấy. Tôi phải vượt qua mọi gian nan vì tương lai của các con.

Tôi gom góp cây trái trong vườn đem bán, kiếm đủ tiền mua cái vé xe lên Sài Gòn rồi ghé ở nhờ nhà anh chị. Chị tôi trao cho tôi tấm giấy ghi rõ địa chỉ nơi tôi cần đến, cho tôi mượn bồ đồ tươm tất nhất để mặc, nhưng chị cũng lo ăn từng bữa nên chỉ giúp tôi được tới đó.

Tôi cầu cứu cậu em út lúc đó mới tốt nghiệp Sư Phạm, có vợ vừa sinh con nhỏ. Hai vợ chồng vét tất cả gia tài phòng thân đưa cho tôi mượn hai trăm ngàn, lúc đó mua được gần một chỉ vàng.

Buổi sáng ngày tốt mà tôi đã chọn, cậu em chở tôi bằng xe Honda tới trước Tòa Án Quân Khu 7. Trời còn sớm, con đường còn vắng vẻ, cậu Sáu ngừng xe rồi quay lại nhìn tôi, lặng lẽ. Ánh mắt cậu nửa như khuyến khích, nửa như lo lắng, thương cảm khiến tôi mủi lòng muốn khóc. Nhưng tôi gom hết can đảm, lấy giọng bình tĩnh, “Sáu đậu ngay đây, rồ máy sẵn nghe. Có chuyện gì chị phóng lên xe, mình chạy liền nghe.” Cậu em gật đầu, “Em biết rồi, chị cứ vô đi. Ráng cẩn thận!” Tôi xuống xe, thò tay soát lại cuộn tiền dấu trong túi nhỏ ở lưng quần, rồi mím môi bước tới.

Khúc sân xi măng dẫn tới căn nhà nhỏ có tấm bảng đề “Trạm Tiếp Dân” chỉ có mấy thước ngang mà tôi thấy quá dài. Chân tôi ríu lại, tim tôi đập dồn dập, tôi không ngừng van vái, “Anh ơi, phù hộ cho em!”

Tôi là người khách đầu tiên trong ngày, cả căn phòng còn trống không, chỉ có một người công an còn rất trẻ ngồi ở cái bàn nhỏ ngay gần cửa vào. Thấy tôi, hắn hất hàm, “Cần gì?”

Tôi đưa bản sao tờ Trích Lục Án Hình ra rồi lấy giọng nhỏ nhẹ nhất, “Chào chú, tôi muốn xin bản sao của toàn bộ bản án này.”

“Xin để bổ túc giấy tờ đi H.O, phải không?”

“Dạ… Dạ phải. Chú làm ơn giúp dùm!”

Tên công an săm soi ngày tháng trên tờ giấy rồi nói, “Vụ này từ năm 1976, giấy tờ đem ra Hà Nội hết rồi.”

Tôi liếc nhìn quanh, rồi rút nhanh cuộn giấy bạc nhét vào tay hắn và nài nỉ, “Chú làm ơn hỏi dùm tôi…”

Tên công an đút lẹ tiền vào túi, suy nghĩ một chút rồi nói, “Được rồi, để tôi cố tìm. Hai tuần sau chị trở lại.”

Tôi vừa cám ơn hắn vừa lùi ra cửa.

Mười bốn đêm tôi trằn trọc vì lo lắng. Lỡ mà tên công an đó trốn luôn, lỡ mà bản án không còn, lỡ mà công an đòi thêm tiền… Hàng chục cái “lỡ” hiện ra trong đầu làm cho tóc tôi thêm bạc, mặt tôi thêm hốc hác.

Đúng hai tuần, tôi trở lại ngay lúc Toà Án vừa mở cửa. Tim tôi nhảy bình bịch khi thấy tên công an trẻ hôm trước, hắn lôi ra trong ngăn kéo ra một phong bì, đưa cho tôi với một nụ cười thoáng trong ánh mắt nhưng chỉ nói cụt ngủn, “Đây.”

Tôi chụp lấy, miệng líu ríu cám ơn hắn, chân vọt nhanh ra cửa. Mới thấy mặt cậu em, tôi run run lôi ra ba tờ giấy từ trong bao thư ra và nói líu lưỡi, “Có rồi, có rồi, Sáu ơi!”

Tờ đầu là lý lịch của chồng tôi, tờ thứ hai ghi lại diễn tiến trốn trại của anh, và tờ cuối kết thúc bằng giòng chữ:

"Xử phạt :  Trần Văn Bé - Tử Hình"

Nước mắt tôi lúc đó mới tuôn ra và lòng tôi lại đau như cắt trước cái trớ trêu của đời tôi: bản án tử hình với những lời chửi chồng tôi là “ác ôn, phản động” cũng là tờ giấy để cứu mẹ con tôi.

***

Tôi sao lại bản án để gởi lên Sở Ngoại Vụ, còn bản chính tôi cất vào chiếc hộp sắt chung với tờ giấy Trích Lục Án Hình tôi đã nhận năm xưa.

Những đêm mất ngủ tôi lại lấy bản án ra đọc, và tôi đã thuộc từng câu trong đoạn diễn tả những điều xảy ra khi anh vượt trại.

“… Hồi 11 giờ 30 ngày 5 tháng 3, 1976, Bé đã chui rào trốn ra tới Quốc Lộ 1 và thuê xe lam chạy đến khu vực ấp Bắc Hải. Đến đây nghe thấy tiếng súng nổ ở phía sau, Bé liền xuống xe chạy vào nghĩa địa lẩn trốn. Lúc 18 giờ ngày 5 tháng 3, 1976 Bé chạy tới xã Tân Hiệp – Biên Hòa trà trộn trong nhân dân… Đã có sự bố trí từ trước, nhân dân và chính quyền địa phương đã bắt Bé.”

Như vậy là anh đã lẩn trốn hơn sáu tiếng đồng hồ, từ trưa tới chiều ngày 5 tháng 3, 1976. Lòng tôi đau như cắt khi nghĩ đến lúc anh bơ vơ ở Biên Hòa, vùng đất miền Nam quê hương, nơi rất thân quen nhưng lúc đó đã trở thành xa lạ, đầy cạm bẫy trong móng vuốt kẻ thù.

Trời ơi! Chúng đã bao vây anh ở Tân Hiệp ra sao? Anh có hoảng hốt, tuyệt vọng không? Anh có bị đánh đập nhiều không? Rồi trong hơn một tháng từ ngày 5 tháng 3 cho tới 10 tháng 4, 1976, anh đã bị hành hạ tới mức nào? Những ngày nóng như lửa nằm trong connex, anh đã đau đớn, đói khát tới bao nhiêu? Những đêm dài khủng khiếp anh đã nghĩ gì? Anh có nhớ vợ con nhiều không? Anh có lời gì muốn nói với với chúng tôi không?

Óc tôi bưng bưng với hàng trăm câu hỏi, ruột tôi đau như xát muối khi nghĩ tới những khổ hình anh phải chịu lúc cuối đời. Trong đêm lặng lẽ, nước mắt tôi tuôn ra, chảy ngược xuống ván, ướt đẫm hai bên tóc mai. Và tôi thường thiếp đi với bản án tử hình úp trên ngực… 

***

Sau khi tôi nộp bản án tử hình lên Sở Ngoại Vụ, hồ sơ được Mỹ chấp thuận nhanh chóng và gia đình tôi được vào danh sách H.O. 14.

Nhưng nhà cầm quyền Cộng Sản đâu có để chúng tôi ra đi một cách dễ dàng! Ngày tôi đi lãnh hộ chiếu, một nhân viên Sở Ngoại Vụ cau có nói, “Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa đã bỏ tiền ra đào tạo nuôi dạy các con của chị, nay các con chị lại ra đi, không phục vụ cho Đảng và nhà nước. Chị phải đền lại tất cả số tiền mà nhà nước đã bỏ ra. Chị đi về đi, khi nào trả tiền xong cho nhà trường, cầm biên lai lên đây thì sẽ được lãnh hộ chiếu.”

Tôi lại ra về với nỗi lo thắt thẻo ruột gan.

Trong tay tôi không có tới vài chục ngàn mà họ đòi bồi thường tiền triệu! Chạy xuôi chạy ngược hết mọi nơi, suy nghĩ nát đầu óc, cuối cùng tôi lại phải về cầu cứu mẹ ruột của tôi. Bà suy nghĩ trắng một đêm rồi quyết định cắt một phần đất vườn nhà đưa cho tôi, coi như chia gia tài, mặc dù mẹ tôi còn sống.

Tôi rớt nước mắt vì thương mẹ và tủi thân mình. Từ nhỏ cha mẹ nuôi tôi ăn học, lớn lên làm cô giáo lương bổng ít oi, lấy chồng quân nhân, “tiền lính, tính liền” nên tôi chưa bao giờ có cơ hội báo hiếu cha mẹ.

Rồi cuộc đổi đời làm tôi góa bụa, một nách sáu con thơ, sống được tới giờ cũng nhờ cha mẹ nhịn ăn mà bao bọc. Nay ba tôi đã khuất, các con tôi đã lớn, vậy mà lúc ngặt nghèo cũng lại là mẹ già phải hy sinh.

Tôi vừa khóc vừa rao bán phần đất mẹ cho. Người ta biết tôi cần tiền nên ép giá, chỉ trả hơn một cây vàng. Tôi đem đền trường học gần hết, phần còn lại không đủ để đi xe lên xuống Sài Gòn phỏng vấn và khám sức khỏe nên tôi lại phải mượn em trai tôi.
          
Rồi cái ngày mong đợi cũng tới. Ngày 20 tháng Mười Một, 1992, chúng tôi ra phi trường với một cái va li duy nhất chứa hành lý của cả gia đình sáu người. Mỗi đứa con tôi chỉ có một bộ quần áo trên người và một bộ đem theo, chỉ có tôi là được sắm một cái áo lạnh còn lại thì đành tới đâu hay tới đó.

Tôi ôm trên tay tài sản quý nhất, đó là cái bao thư lớn đựng di ảnh của chồng tôi, một vài tấm hình thời chúng tôi yêu nhau, và bản án tử hình.

Máy bay cất cánh, tôi nhìn qua cửa sổ thấy Sài Gòn thu nhỏ dần mà nghẹn ngào. Cuối cùng, các con tôi đã thoát ra khỏi cái ngục tù bao la của nhà cầm quyền Việt Nam. Lần đầu tiên từ sau tháng Tư, 1975, tôi cảm thấy bình an.

Anh ơi, em đã lo được cho các con như lời anh dặn dò lần cuối. Cái chết đau đớn của anh và nước mắt, mồ hôi của em đã mở đường cho các con đi đến một tương lai tươi sáng. Anh đang mỉm cười, phải không anh?






Cho Thành Phố Mất Tên - Thanh Lan CD57




Bản 1 - 7


Bản 8 - 14


(sưu tầm từ internet)

1944–1956: Radioactive nutrition experiments on retarded children by Harvard and MIT


Children at Fernald State School fed Radioactive Cereal by scientist at MIT & Harvard University

In December of 1993, Scott Allen, a journalist at the Boston Globe, uncovered documents showing years of ethically dubious experiments conducted on Fernald Center youth. The day after Christmas, he published an article, “Radiation Used on Retarded,” noting that “Records at the Fernald State School list them as “morons,” but the researchers from MIT and Harvard University called the retarded teen-age boys who took part in their radiation experiments ‘the Fernald Science Club.'” 

Developmentally disabled children at the Fernald State School and a state School in Waltham, Massachusetts were subjected to radioactive nutrition experiments sponsored by the AEC conducted by Harvard University and MIT researchers. The children were fed Quaker Oats breakfast cereal containing radioactive tracers to test absorption of plant minerals and calcium. Parents were never informed that radioactive elements were involved in the tests.

“In the name of science, members of the club would eat cereal mixed with radioactive milk for breakfast or digest a series of iron supplements that gave them the radiation-equivalent of at least 50 chest X-rays. From 1946 to 1956, scores of retarded teen-agers consumed radioactive food to help the researchers better understand the human digestive process.”

“There is absolutely no ground for caution regarding the quantities of radioactive substances which we would use in our experiments,” Massachusetts Institute of Technology biochemist Robert S. Harris assured Fernald’s superintendent in a letter proposing the research in December 1945. At least some consent forms sent home to parents or guardians do not mention radiation.”

“Based on figures in an unpublished report on the project, the children’s spleens were exposed to between 544 and 1,024 millirems of radiation over the course of seven meals. By comparison, the typical American receives about 300 millirems of radiation from natural sources each year.”

“The experiments at the Fernald School, which almost certainly would not be permitted today, are one of the darker corners of Massachusetts’ atomic legacy. Along with pioneering the field of nuclear medicine, some of the state’s leading academic institutions and hospitals also subjected the terminally ill, the elderly and others to radiation doses that are considered unsafe today, often with no possible benefit to the test subjects.”

Though never secret — researchers published the results of the Fernald studies in scholarly journals — details of the research effort, funded partly by Quaker Oats Co. and the US Atomic Energy Commission, have sat in a jumble of boxes in the Fernald School library until now.

“It’s very important that the public begin to see that secrecy at bottom is what lets this happen,” said David Rush of Tufts University’s Human Nutrition Research Center, who has written a book on radiation exposure to defense workers. He called the Fernald experiments “something of which American medicine should be ashamed.”

But Constantine Maletskos, a former MIT researcher who studied how teenagers at Fernald metabolized radioactive calcium, defended the experiments, saying they yielded important information about nutrition. “I feel just as good about it today as the day I did it,” he said, “The attitude of the scientists was we’re going to do this in the best way possible. . . . They would get the minimum radiation they could possibly get and have the experiment work.”

But Jacob Shapiro, director of radiation protection at Harvard University, declined to say whether the experiments were dangerous, but he stated: “I would ask a colleague of mine, would you let your child get that dose?”

Scott Allen’s article not only ignited a national debate about the ethics of medical research, but it inspired the federal government to launch an investigation into the matter.

In her article, “In Debate on Radiation Tests, Rush to Judgment Is Resisted” Gina Kolata of The New York Times,took a far different approach in reporting the egregious exploitation of helpless, vulnerable children in immoral experiments that indeed,  no researcher would subject his own child to.

Her article is decidedly more sympathetic toward the researchers who conducted the radiation experiments as well as to the infamous Willowbrook experiments, which she credits with the development of the controversial Hepetitis B vaccine. She quotes Dr. Victor Bond, a medical physicist and doctor at Brookhaven National Laboratory, who defended the Fernald experiments, arguing that:

“a question arose as to whether chemicals in breakfast cereals interfered with the uptake of iron or calcium in children. An answer was needed.  One obvious way to do the study, he said, would be to use radioactively tagged trace amounts of iron and calcium and to follow the fates of these minerals in the body when children ate cereals.” (Read Gina Kolata, The New York Times, Jan. 1, 1994) 

Scientists who defend radiation and other ethically dubious human experiments on persons who are incapable of refusing, do so from an elitist position of superiority. They continue to harbor the Eugenic ideology which regards human beings not of their class, as the means to an end.

“In reference to the entire series of cold war nuclear experiments, Bond offered that “Of course it’s useful information. It’s useful to know what dose of radiation sterilizes; it’s useful to know what different doses of radiation will do to human beings.” (Kolata, 1994)

“They told me I shouldn’t have kids and I shouldn’t get married. They said I might have a defect, that I had something wrong with me. They said ‘You aren’t stabilized and you shouldn’t have kids because of what you have.’ I didn’t know what I had. Nobody ever told me. I thought I was like everyone else.

But I was only a kid. I had no interest in getting married, I was only fourteen years old. And to tell the truth, I just wanted out of there,” recalls Charles Dyer…  

“Only in recent decades have we begun to shine a light into the dark closet of medical ignonomity and illuminate the many stories of vulnerable subjects who were chosen for their perceived inadequacies and handicaps.”  


Mời đọc sách thêm

Wednesday, April 28, 2021

46 Mùa Bluebonnets - Điệp Mỹ Linh



Vào khoảng tháng Tư, dọc theo xa lộ của tiểu bang Texas, hoa Bluebonnet nở rộ, màu xanh thẫm, pha một tý tim tím. Nhìn từ xa lộ, sẽ không thể thấy những viền trắng ly ty trên đài hoa mà chỉ thấy toàn màu xanh tím, trông đẹp và buồn. Màu Bluebonnet buồn hiu hắt này gợi trong tôi hình ảnh những rừng sim tím xa tít tắp nơi giãi đất hình chữ “S” thân thương mà lúc nào hồn tôi cũng quyến luyến!

Giải đất hình chữ “S” rất nghèo nàn và khốn khổ; vì ông Hồ Chí Minh đã du nhập chủ nghĩa cộng sản và khơi động hai cuộc chiến tranh tàn khốc/dai dẳng để người Việt giết người Việt!

Trên giải đất nhuộm đầy máu và nước mắt đó tôi đã được sinh ra, lớn lên, được yêu thương/được nuông chiều và cũng được Cha Mẹ dạy bảo để hiểu thế nào là hạnh phúc/thế nào là khổ nạn và đọa đày; vì vậy tôi rất trân quý và biết ơn sự hy sinh của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã bảo vệ miền Nam Việt Nan “của tôi”. 

Từ khi chạy theo Người Lính VNCH để thoát khỏi hỏa tiễn 120 do cộng sản Việt Nam (csVN) “nả” dồn dập vào Saigon, chưa một lần tôi nghĩ rằng tôi sẽ mất Quê Hương. Nhưng thực tế và lý trí cho tôi biết rằng tôi đã mất Bà vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. 

Ngày gần cuối tháng Tư, 1975, khi ba tiếng nổ rền vang một góc trời, tôi vội vàng mở radio theo dõi tin tức. Dinh Độc Lập bị Trung Úy phản tặc Phạm Thành Trung hướng dẫn phi công csVN lấy phi cơ của VNCH từ Phan-Rang bay vào dội bom! Lệnh thiết quân luật được ban hành. 

Tôi vội chụp điện thoại gọi Minh – Bố của các con tôi. Minh không có mặt tại văn phòng. 

Tôi chạy lên sân thượng nhìn ra đường. Từng đoàn xích lô máy/xe lam đầy người, lũ lượt chạy về Sở Hàng Hà, Thị Nghè. Tôi lấy ống dòm để nhìn xa hơn. Từng đoàn Quân Cảnh, Cảnh Sát đang giăng kẽm gai khắp mọi nẽo đường.

Tôi chạy xuống bếp rồi chạy ra/chạy vào phòng khách mà không biết phải làm thế nào để đón bốn đứa con của tôi đang ở nội trú! Quanh tôi chỉ có bà giúp việc, cũng đang hoang mang/sợ hãi, nhìn tôi. Tôi quyết định đi bộ. 

Vào đến sân trường Régina Pacis, tôi mệt lã, mồ hôi nhễ nhại. Quanh tôi nhiều người cũng thất thần/hoang mang/sợ hãi như tôi. Vừa thấy tôi, Sơ Claudine cho người dẫn hai đứa con gái của tôi đến và bảo tôi ký vào sổ. 

Rời trường Régina Pacis, nắm tay hai đứa bé, tôi cố sải những bước dài, lòng tràn ngập lo âu. Đến ngã tư Tú Xương và Hồng Thập Tự, ba Mẹ con tôi bị chận lại bằng tiếng quát tháo: 

- Đi đâu? Đi về đi. Thiết quân luật, không biết sao?

 Tôi phải trình đủ giấy tờ và van lơn họ mới nhích hàng kẽm gai cho ba Mẹ con tôi đi qua.

 Chúng tôi ghé trường Notre Dame des Missions đón hai đứa con trai. Quang cảnh ở đây cũng chẳng khác gì ở trường Régina Pacis. Năm Mẹ con tôi nắm tay nhau, vừa đi vừa chạy. 

Vế đến nhà, tôi lại điện thoại cho Minh, nhưng vẫn không gặp. Tôi bồn chồn, đứng ngồi không yên. Cha Mẹ và cả đại gia đình của tôi còn kẹt ngoài Trung. Nay thân đàn bà với bốn con thơ, một đứa lại hen suyển rũ người, trong túi chỉ còn khoảng hơn hai ngàn đồng, ngân hàng lại đóng cửa, tôi không biết phải toan tính gì! Tôi gọi các con tôi lại, chỉ cho con tôi nơi trốn pháo kích, rồi dặn: 

-Từ bây giờ, nếu ai hỏi các con Ba làm nghề gì, các con phải nói Ba là thợ may, nghe chưa?

Con gái lớn của tôi vùng vằn:

- Sao kỳ vậy? Ba đâu phải thợ may. Con biết chớ bộ. Ba là…

 Đưa tay bịt miệng cháu lại, tôi năn nỉ:

- Con thương Măng, nghe lời Măng. Các con phải nói Ba là thợ may thì các con và Măng mới không bị họ giết!

- Họ là ai mà ác quá vậy, Măng?

- Việt cộng, tên khác là cộng sản Việt Nam!

- Măng dạy tụi con không được nói láo; bây giờ Măng biểu tụi con nói Ba là thợ may. Ba biết may hồi nào?

- Bây giờ Măng muốn các con nói Ba là thợ may; các con có chịu nói hay không?

Các cháu tiu nghĩu, im lặng.

Chiều 29 tháng 4, tôi hỏi Minh:

- Có nên vào cư xá Hải Quân tạm trú hay không, anh?

- Vô cư xá, gần Bộ Tư Lệnh, càng dễ “lãnh” pháo kích nữa! Đừng lo. Nếu có di tản chiến thuật, mấy “thằng” bạn của anh sẽ điện thoại cho anh. “Tụi nó” hứa rồi.

Hoàng hôn kéo về vừa đủ bóng tối cho đoàn quân khát máu tiến nhanh về Thủ Đô miền Nam. Chính lúc đó, nhiều gia đình quanh xóm kéo đến trước cổng nhà tôi.

Vì Minh vẫn còn mặc quân phục, tôi không cho Minh ra cổng. Tôi ra cổng xem họ cần gì. Nhìn những đôi mắt thất thần của họ, tôi hơi yên lòng, hỏi:

- Các ông bà cần gì ạ?

- Cô Hai ơi! Nhà của cô ba tầng, kiên cố quá, xin cho chúng tôi vào trốn pháo kích.

Là một phụ nữ dễ tin người và rất nhẹ dạ, nghe hai tiếng “cô Hai” – mà anh tài xế của Minh và bà giúp việc thường gọi tôi – tôi nghĩ có lẽ những người này cũng không xa lạ gì. Tôi mở cổng. Nhóm người tràn vào nhà, ngồi trên nền gạch hoa tại phòng khách, phòng ăn và nhà bếp.

Tôi lên lầu hai, bắt gặp ánh mắt giận dữ của Minh:

- Em khùng hả? Em cho họ vào như vậy nhỡ có gì làm sao mình đi? Nhỡ có nội tuyến thì sao?

- Tội nghiệp họ mà! Mình ở hiền, gặp lành anh à! Họ xin vào trốn pháo kích mà mình không cho, nhỡ Việt cộng pháo kích, họ chết thì mình nghĩ sao?

Minh im lặng. Tôi tiếp:

- Ô, anh gọi anh Thanh chưa?

- Rồi! Nó và vợ con đang trên đường tới.

Sau khi gia đình anh Thanh đến, tôi đưa gia đình anh lên tầng hai, ngồi chung với gia đình tôi. Minh và anh Thanh bàn định kế hoạch, thủ sẵn đạn và một M16. Tôi ngồi riêng một góc, đầu óc quay cuồng. Bần giùn. Đi hay ở lại? Ở lại có gặp được Cha Mẹ và các em của tôi không? Ở lại Minh có bị gì không? Đi thì đi đâu?

Khoảng 9 giờ tối, ngoài đường vắng tênh. Tiếng súng lớn nghe xa xa. Tiếng súng nhỏ nổ dòn, mỗi lúc một gần. Minh chạy lên sân thượng để nhìn sang Hải Quân Công Xưởng, vùng Tân Cảng và xa lộ để phỏng đoán tình hình. Thấy hướng cầu xa lộ và Tân Cảng có nhiều đóm sáng xẹt qua/xẹt lại, Minh chạy xuống, chụp ống điện thoại rồi chán nản vất xuống; vì điện thoại bị cắt. Minh trở lên sân thượng, mở máy truyền tin. Không ai đáp lời Minh cả. Minh trở xuống, giọng bực tức nói với anh Thanh:

- Chắc “cha con tụi nó” đi hết rồi! “Moa” nghe chúng nó điều động tàu bè mà không đứa nào đáp lời “moa” trên máy truyền tin cả.

Im lặng. Một chốc sau, Minh tiếp:

- Để “moi” lên sân thượng, dùng ống dòm nhìn qua Hải Quân Công Xưởng xem còn chiếc nào không.

Tôi chỉ im lặng, thở dài. Không lâu lắm, Minh trở xuống, giọng bực tức:

- Chắc “cha con nó” đi hết rồi! “Moi” thấy còn 2 chiếc mà hai chiếc “đại kỳ” (đang sửa chữa) thì làm “chó” gì được! Thôi, đi ngủ, sáng mai tính.

Tôi hốt hoảng:

- Súng nổ gần quá mà anh bảo để mai tính? Mai thì chỉ mình anh đi được thôi; còn mẹ con em không thể nào chạy nổi đâu!

Anh Thanh cũng thúc Minh nên đi ngay.

Chúng tôi kéo nhau xuống tầng dưới. Khi đi ngang kệ sách, tôi chần chừ, nhìn cuốn album gia đình rồi nhìn cây đàn Accordéon. Tôi vừa đưa tay có ý muốn xách cây đàn thì Minh nạt:

- Không đem cây đàn! Bốn đứa nhỏ lo còn chưa xong…

Thấy những người xin trốn pháo kích im lặng nhìn chúng tôi, Minh không nói tiếp. Tôi quẹt nước mắt, vừa bước đi vừa ngoái nhìn lại cây đàn Accordéon.

Vừa đi về phía cổng Sở Hàng Hà, tôi vừa khóc. Tôi không hiểu tại sao tôi không tiếc ngôi nhà lầu ba tầng mà tôi lại chỉ tiếc cây đàn Accordéon! Cây đàn Accordéon này là do Ba tôi – sau khi tôi lên trung học – đã đưa tôi vào tiệm đàn Mỹ Tín, trên đường Hai Bà Trưng, Saigon, đặt mua từ Ý Đại Lợi và Cụ cũng đặt mua cuốn sách dạy đàn Accordéon từ Pháp, bằng tiếng Pháp.

Khi tiệm đàn Mỹ Tín cho biết cây đàn đã về, Ba tôi lại đưa tôi vào Saigon, đến tiệm đàn Mỹ Tín, nhận cây đàn và cuốn sách, rồi về lại Nha Trang dạy tôi đàn.

Tình Cha thương con vô bờ đến như thế mà nay tôi đành đoạn ra đi, bỏ lại Cha Mẹ! Ngay cả kỷ vật của Cha mà tôi cũng không thể mang theo! Chính điều này ray rức hồn tôi rất nhiều!

Chúng tôi đi bộ vào sở Hàng Hà. Minh nhờ một giang đỉnh đưa chúng tôi sang Dương Vận Hạm Đà Nẵng, HQ501. Có tiếng loa xua đuổi và xác nhận HQ501 không đi.

Minh lại nhờ chiếc giang đỉnh đưa chúng tôi sang LST cuối cùng còn tại bến – Dương Vận Hạm Thi Nại, HQ502. Lại tiếng loa không cho giang đỉnh cặp vào. Minh bắt loa gọi đích danh Hạm Trưởng Tánh và xưng tên thì bên HQ502 im lặng. Minh nhờ thủy thủ từ HQ 502 quăng giây xuống. Giang đỉnh cặp vào.

Từng tháp tùng nhiều cuộc hành quân hỗn hợp – có đụng độ lớn – nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy sợ hãi như hôm đó! Khoảng cách từ giang đỉnh lên đến sàn chiến hạm quá xa. Nước chảy xiết và xoáy sâu. Từ chiến đỉnh, từng người một, phải đu vào sợi giây do thủy thủ từ HQ 502 thòng xuống; và cũng chính những thủy thủ hảo tâm này kéo chúng tôi lên HQ 502. 

Chúng tôi theo Minh tìm chỗ ngồi. Không còn một chỗ trống. Chúng tôi kéo nhau lên gần đài chỉ huy và ngồi ngay khoảng không gian nho nhỏ nối tiếp giữa đài chỉ huy và sàn tàu.

12 giờ đêm 29-1975, HQ502 được chặt giây, tách bến.

Khi HQ502 giang hành ngang Câu Lạc Bộ nổi, cầu A, cầu B rồi Bộ Tư Lệnh Hải Quân, tôi cảm thấy buồn quá đổi! Nỗi buồn rưng rức trong hồn tôi lúc này không khác mấy so với niềm xót xa ngày nào trên kinh Vĩnh Thế, khi đoàn chiến đỉnh kéo nhau đi, bỏ lại phía xa chiếc Command 01 bị chìm, vì người nhái Việt cộng gài mìn! 

Khi HQ 502 đến gần Nhà Bè, tôi thấy nhiều bồn xăng phát nổ vì trúng đạn pháo kích của csVN. Quanh tôi, từng khối lửa lóe sáng, từng cột khói đen cuồn cuộn, từng loạt đạn pháo kích nổ dòn như nỗi vui mừng hớn hở của đoàn csVN khát máu đang kéo về dày xéo phần còn lại của Mẹ Việt Nam!

Sương xuống thật nhiều. Gió lộng từng cơn. Tôi không biết tôi đang nghĩ gì? Đang làm gì? Đang đi đâu? Có thật csVN đang tiến vào Saigon hay không? Tôi tự hỏi, năm Mậu Thân, 1968, csVN tấn công tòa đại sứ Mỹ – ngay trước dinh Độc Lập – mà mình vẫn chống trả, chiếm lại được Tòa Đại Sứ Mỹ. Bây giờ csVN chỉ tới ngã tư Bảy Hiền, tại sao mình lại bỏ đi? Những lần tháp tùng hành quân, chưa bao giờ tôi thấy đơn vị do Minh chỉ huy phải rời bỏ vùng hành quân khi chưa chiếm  được mục tiêu!

Tôi hỏi Minh:

-Tại sao mình phải di tản, anh?

- Ở lại, đạn đâu nữa mà đánh! Xăng đâu còn cho phi cơ yểm trợ! Dầu đâu còn cho tàu chạy! “Thằng Mỹ” khốn nạn, gây ra cảnh này!

Tôi gục mặt vào lòng bàn tay, khóc! Bất ngờ tôi nghe tiếng Minh:

- Tánh ơi! Cho mấy chiếc PBR – khinh tốc đỉnh – của Đại Tá Xuân cặp vào. Vớt ông ấy đi!

Hạm trưởng Tánh hỏi:

- Xuân nào? Sao anh biết?”

- Đại Tá Trịnh Quang Xuân, Tư Lệnh Vùng III Sông Ngòi. Nghe giọng ông ấy trong máy truyền tin “moi” biết mà.

Nhìn hai bên bờ, trong cảnh tranh tối tranh sáng, tôi thấy nhiều ghe và giang đỉnh trôi dật dờ.

Không bao lâu, chúng tôi đến Vũng Tàu khi ánh nắng mai đang reo vui trên triền sóng. Quanh tôi, mọi người trông rất rũ rượi, mệt mỏi, có lẽ đêm hôm qua không ai có thể ngủ được; vì tất cả đã trải qua một đêm kinh hoàng!

Bất ngờ một câu nói chát chúa làm mọi người giật mình:

- Mẹ! Dương Văn Minh đầu hàng rồi!

Mọi người chia ra từng nhóm quanh những người có radio. Tiếng tướng Minh lập đi lập lại lè nhè làm tôi khó chịu. Tôi vẫn không tin những gì tôi đã nghe. Quanh tôi, vài giọng bực tức vang lên:

- Tắt mẹ nó mấy cái radio đi!

- Đập bể cái radio cho “lão” câm “mõm” lại đi!

Thế là hết! Tôi cảm thấy như hụt hẩng/như chơi vơi/như đang rơi vào khoảng không!

Trong trạng thái vừa ngầy ngật vì say sóng, vừa bấn loạn về tâm thần vì tin tướng Minh đầu hàng csVN, tôi chợt thấy một chiếc L19 lượn nhiều vòng quanh HQ502. Mọi người nhốn nháo/lo âu; vì ngại phi công csVN lấy phi cơ của VNCH bay theo, bắn vào người di tản.

Bất ngờ một anh Không Quân nhảy ra. Mọi người reo mừng.

Trong khi anh Không Quân “ngoi ngóp” trên triền sóng, người nhái Nguyễn Văn Kiệt mang phao và đôi chân nhái, cầm theo một phao nữa rồi nhảy xuống biển, vớt anh Không Quân.

Chiếc L19 lượn thêm nhiều vòng nữa, rồi anh phi công nhảy ra. Thân người của anh phi công vừa chạm mặt nước thì bị “tưng” lên rồi…chìm khuất! Mọi người ngơ ngác trong vài giây rồi hướng mắt về chiếc phi cơ không người lái. Chiếc phi cơ quay vài vòng rất hẹp rồi chúi mũi xuống mặt biển, nổ tung!

Phía trước HQ502 là những chấm nhỏ ly ty của đoàn tàu; phía sau là “rừng” ghe thuyền ồ ạt. Nhiều giang tốc đỉnh – PBR – kè sát hai bên HQ502; và trên không, vài chiếc trực thăng xin bãi đáp.

Tôi đã đọc và xem phim về cuộc di cư của người Bắc vào Nam năm 1954. Tôi cũng đã nghe Ba tôi kể lại cuộc triệt thoái của quân đội viễn chinh Pháp. Nhưng chưa bao giờ tôi nghe/thấy/đọc về cuộc rút quân nào mang tính chất bi hùng nhưng thảm khốc như những cuộc di tản của đồng bào tôi vào mùa xuân đẩm máu/chia lìa, 1975! Không ai còn khóc được nữa! Trái tim đã tê điếng và khối óc đã dại khờ!

Đêm về thật nhanh. HQ502 tiến một cách ngập ngừng; cuối cùng phải nhờ một chiến hạm khác kéo đi. 

Sáng hôm sau, Minh đến dặn tôi:

- Sắp cặp và tàu Mỹ để nhận nhiên liệu và thực phẩm, em phải giữ bốn đứa nhỏ tại đây, không cho các con ùa đến xin thức ăn. Đừng để Mỹ nó khinh!

Khi chiến hạm Mỹ cặp sát vào HQ502, đúng như Minh tiên đoán, nhiều người chen lấn nhau, cố chụp giật từng trái cam/trái táo do thủy thủ Mỹ thảy sang. Thấy những nụ cười nham nhở trên những vành môi đang nhai ngồm ngoàm miếng táo/miếng cam, tôi cảm thấy tức giận, nhưng không biết giận ai!

Những ngày kế tiếp cũng vẫn nước uống hạn chế, thức ăn dè xẻn. Vấn đề vệ sinh phải sắp hàng. Đàn ông/đàn bà dùng chung một nhà cầu “dã chiến”, lộ thiên!

Một đêm thật khuya, tôi nhìn xuống sàn chiến hạm và thấy mọi người nằm ngổn ngang. Tất cả đều im lặng như không còn sự sống. Tiếng máy tàu vi vu trong gió, âm hưởng thật buồn. Tự dưng tôi nhớ tiếng máy của đoàn chiến đỉnh, thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong, trong những đêm khuya giang hành trên những dòng sông đầy mìn bẫy của Việt cộng để tiếp cứu các đồn Nghĩa Quân, thuộc vùng U-Minh/Chương Thiện. Không biết bao nhiêu lần tôi thấy giang đỉnh chìm, mang vào lòng sông nhuộm máu nhiều thân trai không toàn vẹn! 

Ngày đó, chiến đỉnh chìm vì bị Việt cộng đặt thủy lôi. Bây giờ HQ402 chìm do Hải Quân Hoa Kỳ bắn – vì HQ402 bất khiển dụng! Và tôi thấy trên vài chiến hạm của Hải Quân Hoa Kỳ, người ta xô trực thăng xuống biển! Tôi hoang mang quá độ! Nếu cố gắng suy nghĩ, có lẽ tôi sẽ điên!

Bất ngờ, tôi thấy Minh từ đài chỉ huy chạy xuống, giọng bực tức:

- Mẹ nó! Nó đưa một thằng thiếu úy bàn giao hạm trưởng. Thằng thiếu úy chả thèm chào hạm trưởng, chỉ chìa tay bắt thôi. Tức bỏ mẹ!

Sau đó, không biết lệnh từ đâu, tất cả sĩ quan/hạ sĩ quan/binh sĩ phải gỡ cấp bậc, cắt cầu vai! Mọi quân nhân đều âm thầm thi hành.

Minh ngồi trầm ngâm nơi góc cầu thang. Tôi đến gần, thấy Minh đang cầm cái nón lưỡi trai, bên trong là cặp “ga-lông” có 3 gạch vàng, một vòng tròn cũng màu vàng và hai cầu vai. Minh ngồi lặng yên, mắt đăm đăm nhìn vào cái nón lưỡi trai. Tôi không thấy ánh mắt của Minh; nhưng tôi biết Minh đang nghĩ gì! Tự dưng nước mắt của tôi lăn dài! 

Khi đưa tay quẹt nước mắt, tôi tưởng như tôi đang khóc khi chờ trực thăng tải thương vào những lúc Minh và thuộc cấp của Minh bị thương trên những dòng sông oan nghiệt; hoặc khi tôi thấy thân người không toàn vẹn – trong quân phục Bộ Binh – của những quân nhân đã hy sinh trong rừng tràm hoặc rừng dừa nước mịt mùng, được khiêng ra chiến đỉnh, đem về hậu cứ để thông báo cho gia đình! 

Tôi cứ đứng lặng cho nước mắt tuôn rơi/cho tâm hồn chùng xuống để cùng gánh chịu nỗi đau của thế hệ hôm nay! 

Bất chợt Minh ngẫng lên. Thấy tôi, Minh cố nén xúc động, trao tôi cái nón lưỡi trai – có cặp “ga-lông” bên trong – giọng hơi nghèn nghẹn, bảo:

- Cất đi!

 Chưa bớt xúc động, tôi lại nghe từ đài chỉ huy:

- Tất cả sẵn sàng làm lễ hạ Quốc Kỳ, treo cờ Mỹ lên!

Không biết ai bắt đầu bài Quốc Ca nhưng mọi người cùng ca. Ca thật lớn cho vơi nỗi nghẹn ngào! Nước mắt đầm đìa khóc cho nỗi nhục chung!

Khi lá cờ được xếp lại, tôi liên tưởng đến những hàng cờ thẳng tắp, phủ ngay ngắn trên những dãy quan tài ở Nghĩa Trang Quân Đội! Và tôi tưởng như tôi thấy lại hình ảnh của những thiếu phụ – gồm cả vợ cố Thiếu úy Biệt Động Quân Hồ Trung, em ruột của Minh – đã vật vã khổ đau, úp mặt vào lá cờ như cố giữ lấy sự thiêng liêng khôn cùng!

Qua màn lệ mờ, tôi thấy quân cảng Subic Bay sừng sững với nhiều chiến hạm và hàng không mẫu hạm. Nhìn ra xa, chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ còn lãng vãng. Không xa lắm là mấy chiến hạm của một quân chủng vừa mất bến Mẹ!

Hoàng hôn xuống chầm chậm. Cảnh sắc hùng vĩ/bi thương như trong phim xi-nê chiến tranh. Có khác chăng, đây là một phim sống thực của một soạn giả vô nhân và một đạo diễn không tình người!

Bốn mươi sáu năm đã qua, cảnh sắc hùng vĩ/bi thương năm xưa tưởng đã nhạt nhòa trong hồn tôi; nhưng, không ngờ, mỗi lần thấy màu xanh tím của rừng hoa Bluebonnets là mỗi lần hồn tôi nhói đau vì những kỷ niệm xưa lại hiện về!

Bốn mươi sáu năm tuy dài, nhưng mối tình cảm thiêng liêng trong lòng tôi vẫn ngập tràn để dâng đầy mi, nghẹn tiếng nấc mỗi khi nghe bài Tiếng Gọi Thanh Niên; nghe tiếng Accordéon hoặc khi đưa tay tuyên thệ trung thành với giãi đất đã nhận tôi là người tỵ nạn chính trị.

Vâng, tôi là công dân Mỹ họ Nguyễn. Tôi xin thề trung thành với vùng đất giàu sang này. 

Nhưng, vào một ngày đầy uất hận – 30 tháng Tư năm 1975 – tôi đã để lại trái tim của tôi nơi Quê Mẹ đau thương, bên kia trời Châu Á!






Tiếng Hát Ly Hương - Bốn Phương Cassette




Mặt A


Mặt B


(sưu tầm từ internet)

Quê Hương Bỏ Lại - Bốn Phương Cassette




Mặt A


Mặt B


(sưu tầm từ internet)

Ánh Đèn Màu - Tình Khúc Muôn Thuở 8 - Ngọc Huệ Music




Bản 1 - 5


Bản 6 - 10


(sưu tầm từ internet)

Bắc Đẩu - AsiaCD265




Bản 1 - 5


Bản 6 - 10


(sưu tầm từ internet)

Chuyện cu 3 ...








Tình Hồng Rực Nắng Hè - AsiaCD58




Bản 1 - 5


Bản 6 - 10


(sưu tầm từ internet)

Tuesday, April 27, 2021

Latin Người Tình Nữ - Tình Khúc Muôn Thuở 3 - Ngọc Huệ Music




Bản 1 - 5


Bản 6 - 10


(sưu tầm từ internet)

Còn Nhớ Em, Xin Cứ Về - Người Đẹp Bình Dương Gold CD6




Bản 1 - 5


Bản 6 - 10


(sưu tầm từ internet)

Cuộc Tình Xưa - Cao Lâm Cassette




Mặt A


Mặt B


(sưu tầm từ internet)

Đồng Xanh - Tình Khúc Muôn Thuở 4 - Ngọc Huệ Music




Bản 1 - 5


Bản 6 - 10


(sưu tầm từ internet)

Monday, April 26, 2021

Tâm Sự Người Lính Trẻ - Nhật Tùng Cassette1



Mặt A


Mặt B


(sưu tầm từ internet)

Gửi Anh Người Lính Ngày Xưa - Thanh Loan CD




Bản 1 - 9


Bản 10 - 17


(sưu tầm từ internet)

Tuấn Vũ và Những Chuyện Tình - DoReMi Cassette6




Mặt A


Mặt B


(sưu tầm từ internet)

Thương Tình Nhân - Thu Phạm CD




Bản 1 - 5


Bản 6 - 10


(sưu tầm từ internet)

Hoa Sứ Nhà Nàng - Sơn Tuyền CD




Bản 1 - 5


Bản 6 - 10


(sưu tầm từ internet)

Sunday, April 25, 2021

Thursday, April 22, 2021

Tự Truyện Của Tím - Điệp Mỹ Linh


Hình minh họa.

Một buổi chiều im vắng bên dòng sông Cái Lớn. Theo hướng gió mơn man trên rừng dừa nước, Tím đẩy mái chèo một cách khoan thai, nhẹ nhàng. Chiếc xuồng nhỏ rẻ nước, lặng lờ trôi ngang đồn Nghĩa Quân. Tiếng đàn và tiếng hát nghe văng vẳng xa xa. Khi xuồng đến gần, Tím thấy một người lính đang ôm “cây đàn số 8” – do trẻ em trong làng đặt tên; vì không đứa nào biết cây đàn này tên là Guitar mà chỉ thấy thùng đàn giống như số 8 – ngồi trên hầm chống pháo kích. Người lính cứ say sưa hát:

“… Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn nhìn anh em nói: ‘Thương anh!

Không thể nào Tím hiểu được ý nghĩa của lời ca. Nhưng giai điệu thiết tha, êm đềm của dòng nhạc cùng với âm thanh trầm trầm của “cây đàn số 8” và mấy tiếng “anh nhớ” và “thương anh” gieo vào lòng nàng thôn nữ – vừa qua tuổi dậy thì – nhiều ước mơ và mộng tưởng. Tím muốn ủi xuồng vào bờ để nghe cho đả; nhưng chợt nhớ, quanh đồn là khu vực quân sự, cấm lai vãng, Tím đành phải vừa chèo chầm chậm vừa lắng nghe. Bất ngờ người lính trên vọng gác chỉa súng xuống, nói lớn:

-Tránh xa! Đừng tới gần!

Tím giật mình, hơi hoảng sợ. Chợt nhớ, mỗi lần Việt cộng về làng thu thuế hoặc dọa nạt/dụ dỗ trẻ em và người làng đi theo quân “giải phóng”, Mẹ thường đem gạo/đường/cá khô, v.v… “ủng hộ” thì Việt cộng để gia đình Tím yên. Tím bắt chước Mẹ, cố nói lớn cho người lính gác nghe:

- Dạ, tui muốn biếu các anh mấy trái khóm ăn lấy thảo.

- Không được đâu. Tránh xa đi!

- Xời! Khóm ngọt như đường phèn …

Tím nói chưa dứt câu, chợt thấy người lính ngồi đàn trên hầm chống pháo kích ngưng đàn, ngẫng mặt, hỏi người lính trên vọng gác:

- Cái gì vậy, Lộc?

-Dạ, không có gì đâu, thiếu úy. Cô ấy muốn biếu mấy trái khóm mà em không nhận.

Quay sang, thấy khuôn mặt ngây thơ của Tím, thiếu úy nói:

- Cảm ơn em. Nếu em bán thì chúng tôi mua, trả tiền sòng phẳng; còn cho thì chúng tôi không nhận.

- Dạ, mỗi ngày tui chở khóm ra Tắc Cậu bán sĩ; tui đâu biết mỗi trái giá bao nhiêu mà bây giờ thiếu úy biểu tui bán lẻ lại?

- Nếu em không bán thì chúng tôi không thể nhận khóm.

Tím chỉ tay về khóm cây ngoài vòng kẽm gai:

- Cho tui tấp xuồng vô chỗ bụi cây kia, tui đưa mấy trái khóm rồi thiếu úy cho tui nhiu thì cho.

- Vâng. Em tấp xuồng vô chỗ đó đi.

Thiếu úy dựa Guitar vào ụ đất rồi mở cổng đồn, đi về phía khóm cây. Tím ngẩn nhìn thiếu úy và thấy bảng tên Nguyễn Dân. Nhiều quân nhân tò mò đến gần Dân. Sau khi Tím lấy 5 trái khóm để lên bờ, Dân lục tất cả túi áo, túi quần lấy tiền ra rồi xòe tay lượng định xem số tiền đó có thể đủ trả cho 5 trái khóm hay không. Thái độ của Dân làm cho mấy anh lính cười rộ lên; rồi mọi người đều lục túi lấy tiền, trao cho Dân. Dân đến bên xuồng, căn dặn Tím:

- Đây là số tiền tượng trưng của chúng tôi để cảm ơn lòng tốt của em. Em cẩn thận. Lần sau, nếu chèo thuyền qua đây, em nhớ chèo xa xa một chút để tránh rủi ro.

Tím thiệt thà quá đổi:

- Dạ, tui biết mà. Nhưng lâu quá hỏng được nghe tân nhạc, chiều nay nghe thiếu úy hát bài gì hay “wá”, tui muốn nghe cho đả nên tấp đại gần bờ chút mà!

Nhóm lính trẻ lại cười rộ lên. Dân vừa trao tiền cho Tím vừa cười:

-Cảm ơn em. Em cầm tiền đi!

-Tui hỏng dám lấy tiền đâu, thiếu úy!

- Lúc nãy em đồng ý rồi. Nhớ không?

Tím thở dài, miễn cưỡng nhận tiền.Về đến làng, chưa kịp tấp xuồng vào bờ, Tím đã thấy thằng Búng đang ngồi chàng hãng  trên đất, vót cây. Thấy Tím đang cột xuồng vào cây cọc, Búng vội chạy đến bên Tím, bảo:

- Mày để tao cột cho. Tay mày yếu xìu, cột không chặt, rủi trời mưa, nước dưng cao, xuồng sút giây, trôi mất đó, mày!

Tím chưa kịp đáp, Cha của Tím từ trong nhà bước ra, nạt:

- Búng! Tao nói với mày mấy lần rồi; đừng chơi với con Tím nữa!

-Tui giúp nó chớ bộ tui … ăn thịt nó sao mà làm dữ vậy?

Cha của Tím bước đến, vừa giật sợi giây dừa từ tay Búng vừa nói:

-Tao cấm mày chơi với con Tím. Mày nghe chưa, Búng?

Búng quay đi với thái độ giận dữ. Tím im lặng theo Cha vô nhà, lòng thắc mắc, không hiểu tại sao Búng là bạn của Lắm – anh của Tím – mà Cha lại không thích Búng. Vừa vào nhà, Cha đóng nhanh cửa lại, hỏi:

-Tím! Có khi nào thằng Búng hỏi mày về thằng Lắm không?

- Dạ, hồi anh Lắm mới đi, nó hỏi một hai lần gì đó; rồi thôi.

- Mày trả lời sao?

-Thì con nói như Cha Mẹ dặn là ở đây khổ quá, anh Lắm trốn nhà đi bụi đời.

Cha thở dài nhè nhẹ. Sự thật thì – dù có đồn Nghĩa Quân nơi ngã ba và Nghĩa Quân trong đồn thường đi phục kính ban đêm và đi tuần ban ngày – tình trạng an ninh trong làng cũng vẫn bất ổn. Vì, ban ngày Việt cộng trốn trong hầm, dưới mấy vườn khóm, các đơn vị Nghĩa Quân đi tuần, đi kích không thấy hoặc không biết được. Ban đêm Việt cộng chia ra từng nhóm nhỏ: Nhóm này ra tỉnh lộ đặt mìn để sáng xe đò chạy ngang, bị nổ, chết người, giao thông bị gián đoạn; nhóm kia vào làng bắt dân đóng thuế hoặc buộc dân làng “ủng hộ” bất cứ thứ gì; nhóm khác chiêu dụ hoặc cưỡng bức trẻ em đi theo “giải phóng” để làm “anh hùng”; nhóm khác nữa lo đặt mìn trong lòng sông để tàu của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bị nổ, chìm, v.v… Vì muốn Lắm có tương lai và cũng vì lo ngại Lắm sẽ bị Búng dụ dỗ theo Việt cộng, Cha Mẹ của Lắm lén cho Lắm qua Rạch Giá, ở nhờ nhà người Chú để đi học. Khi rảnh và cuối tuần Lắm đi chài lưới với Chú. Nhưng nếu ai hỏi về sự vắng mặt của Lắm, gia đình đều bảo là Lắm trốn đâu mất biệt, có lẽ theo du đảng.

Dân làng vừa hết thắc mắc về Lắm thì bắt đầu chú ý đến lời nói và hành động hơi là lạ của Búng; vì thấy Búng thường chặt cây, vót nhọn như là làm bàn chông để bẩy thú vật và đôi khi Búng vắng nhà cả tuần; nhưng vì sợ Việt cộng và Búng trả thù, không ai dám nói ra. Đó là lý do Cha Mẹ của Tím rất lo lắng khi thấy Búng cứ rà rà muốn kết thân với Tím.

Sáng sớm hôm sau, đang sắp khóm vào xuồng, Tím thấy toán lính Cộng Hòa đi kích về, bước hàng một dọc theo lộ đất cạnh bờ sông, hướng về đồn Nghĩa Quân. Bất ngờ một giọng reo vui:

- Cô ơi! Có phải cô là người hôm qua ủi xuồng vô đồn, cho tụi tôi khóm hay không?

Dừng tay, nhìn toán lính, nhận ra anh Nghĩa Quân gác trên vọng gác chiều hôm qua, Tím cười:

- Dạ, em đó, anh Lộc! Thấy mấy anh, em nhớ anh Lắm của em wá hà!

- Anh Lắm cũng đi lính Cộng Hòa, phải không?

- Ảnh chưa tới 18 tuổi, là con trai một” mà đi lính cái nỗi gì, anh!

Một anh lính vừa chuyền khóm hộ cho Tím vừa nói:

- Mấy cha sao không phụ chất khóm lên xuồng giúp người ta mà đứng đó?

Thế là nhóm lính chuyền khóm lên xuồng cho Tím. Vừa khi đó, Dân cùng với nhóm lính khác đến, hỏi:

-Tụi mày làm gì đây?

- Công tác dân vận, thiếu úy!

Hai tiếng thiếu úy làm Tím quay vội về phía nhóm lính mới đến. Nhận ra Dân, Tím chào:

-Dạ, chào thiếu úy.

-  Gọi tôi bằng anh thôi. Em cỡ tuổi với nhỏ em của tôi mà. Em tên gì?

- Dạ, tui tên Tím. Em của thiếu…ý wên, của anh, chắc còn đi học, phải không?

- Vâng. Còn Tím, sau giờ buôn bán có đi học hay không?

- Mèng ơi! Trường cứ bị tụi ôn dịch – tiếng lóng dân làng dùng để chỉ Việt cộng – về phá sập và hăm dọa thầy cô giáo hoài; không ai dám dạy. Mấy năm nay, con nít trong làng cũng như tui, đâu có trường, đâu có ai dạy mà học!

Lời nói thật thà, mộc mạc và khuôn mặt xinh xinh của Tím làm Dân nhớ cô em lâu ngày chàng chưa về thăm. Chút tình cảm này khiến Dân nói không kịp suy nghĩ:

- Nếu có người dạy, em có muốn học hay không?

- Dạ, học chớ – mà ai thèm bỏ thì giờ dạy tui, Trời!

- Hồi đó em học lớp mấy?

- Dạ, lớp bốn.

-Tôi nghĩ nhiều anh em trong đồn có thể dạy kèm cho em.

- Dạ, dạy kèm là dạy cái gì?

Nhóm lính chưa kịp cười, chợt nhận ra ánh mắt nghiêm khắc của Dân, đành im. Dân đáp:

- Là dạy thêm, dạy ngoài giờ học sinh đến trường.

- Dạ, Mẹ tui nói ai cũng lấy dạ đong lúa chớ ai lấy dạ đong chữ; vì vậy tui chỉ ước sao được học tiếng Anh để làm sở Mỹ, lấy tiền giúp Cha Mẹ thôi.

Thấy toán lính dừng chân hơi lâu, trẻ em trong làng tò mò, kéo nhau đến, đứng quanh. Trong khi Dân hơi khó nghĩ vì Tím chỉ muốn đi làm sở Mỹ thì Lộc nói:

- Nếu cô Tím muốn học tiếng Anh thì chỉ có ông thầy tui mới dạy được chứ tụi tôi bù trớt!

Tím cảm thấy lòng rộn ràng vui, nhìn Dân, cười. Thấy nụ cười rạng rỡ của Tím, Dân không nỡ cắt đứt niềm hy vọng của cô gái quê xinh đẹp:

- Vâng, tôi có thể giúp em học tiếng Anh. Nhưng ngày nào em cũng đi bán khóm, làm thế nào em có thì giờ để học?

- Dạ, sáng tui phụ với Mẹ bán nước mía ngoài chợ. Trưa tui chở khóm ra Tắc Cậu bán sĩ; mà khóm gần hết mùa rồi anh ơi!

Hai tiếng “anh ơi” ngọt lịm của Tím làm cho nhóm lính nhìn Dân, cười. Dân nghiêm giọng:

- Nếu vậy thì tôi sẽ soạn bài bằng tiếng Việt, chỉ dẫn cho em cách phát âm. Soạn xong, khi mấy anh lính đi chợ tôi nhờ mấy ảnh ghé xe nước mía trao bài cho em. Thỉnh thoảng, nếu có dịp, tôi sẽ dò bài cho em nơi xe nước mía. Em nghĩ sao?

- Dạ, mỗi tháng anh tính nhiu?

- Cái cô này! Không ai bắt em trả tiền đâu!

Tím chưa kịp mừng thì nhiều tiếng “ồ” vang lên nho nhỏ trong nhóm trẻ em. Một em bé chạy vào nhà Tím, reo vui:

- Câu Mợ ơi! Ra coi nè! Chị Tím được mấy ông lính Cộng Hòa dạy học hỏng lấy tiền nè!

***

Trong ánh đèn dầu leo lét, thấy Tím bậm bàn tay lại rồi vừa đọc vừa đưa từng ngón tay lên, đếm: One, two, three, four, v.v… Cha cười, hỏi:

- Tím! Mày học cái gì mà giống tụi con nít thường giấu tay sau lưng, nói “woảnh, tù, tỳ ra cái gì, ra cái này” vậy?

Tím chưa biết đáp lời Cha như thế nào, Mẹ lên tiếng: 

- Ông này! Để con nó học, chọc quê nó chi vậy?

Cha chưa kịp đáp thì nghe tiếng súng rền vang, hướng đồn Nghĩa Quân. Bước vội ra cửa, nhìn về hướng đồn, thấy đạn hai bên đan chéo nhau, sáng rực cả một vùng, Cha quay vội vào, thét lên:

- Mẹ! Tụi ôn dịch lại pháo kích vô đồn nữa rồi! Xuống hầm lẹ lên, không thôi đạn lạc!

Cha giở nắp hầm. Mẹ khom người chui xuống. Vừa dợm chui theo Mẹ, Tím thấy ngọn đèn dầu chưa kịp tắt, vội quay lui để thổi đèn tắt cho khỏi hao dầu. Bất ngờ, Búng cùng hai người đàn ông lạ xông vào, chụp tay Tím, lôi đi, trước đôi mắt thất thần của Cha! Cha buông rơi nắp hầm, chạy theo kêu cứu. Nhưng nhà ai cũng đóng cửa tối thui trong khi Búng và hai thằng ôn dịch lôi Tím lên chiếc tắc ráng, dông mất tiêu! Bất chợt, Cha nghe tiếng máy tàu xa xa rồi đoàn giang đỉnh của Hải Quân VNCH đang hướng về phía đồn Nghĩa Quân. Cha khóc ròng: “Trời! Phải chi mấy ổng đến sớm hơn một chút thì cứu được con tui rồi!”

Riêng Mẹ, nghe miệng hầm sập cái ầm mà không thấy Cha và Tím chun xuống. Chờ một lúc cũng vẫn không thấy Cha và Tím, Mẹ mở nắp hầm, leo lên. Thấy Cha trong tư thế như người mất hồn, Mẹ nhìn quanh, không thấy Tím đâu cả. Mẹ gào lên:

-Con Tím đâu?

Lúc này Cha mới hoàn hồn, đáp:

-Thằng Búng dẫn hai thằng ôn dịch tới bắt nó đi rồi!

Mẹ quỵ xuống như trái mít ướt chín cây bị sút cùi!

***

Tiếng trực thăng từ xa vọng lại. Chỉ một chốc sau, ba chiếc đáp xuống nơi bãi đáp dã chiến, bên ngoài hàng rào kẽm gai của đồn Nghĩa Quân. Thiếu tá Quận trưởng, thiếu tá chỉ huy trưởng đoàn giang đỉnh, Dân và vài sĩ quan đến bãi đáp đón ông Tướng Vùng cùng phái đoàn đến thị sát chiến trường.

Người bị thương – không phân biệt Nghĩa Quân, vợ con của Nghĩa Quân hay là tụi ôn dịch – đều được đưa sang hai chiếc trực thăng. Đầy người, hai chiếc trực thăng rời vùng lửa đạn trong khi Dân hướng dẫn vị Tướng Vùng thị sát quanh đồn.

Theo sự hướng dẫn của Dân, vị Tướng Vùng và phái đoàn đi trên sự đổ nát toàn diện do nhiều đợt tấn công bằng chiến thuật “tiền pháo, hậu xung” và “xa luân chiến” của Việt cộng. Vị Tướng thở dài khi thấy người lính Nghĩa Quân tiếp tục âm thầm đào xới, tìm kiếm hình hài không toàn vẹn của bạn hữu, của vợ con và của… kẻ thù!

Xác người và mảnh rời của thân người được để gần bờ sông, chờ người nhà xác nhận hoặc chờ phương tiện đưa về nguyên quán. Xác của tụi ôn dịch được khiêng để ngoài vòng kẽm gai, phía sau đồn, sẽ được chôn nơi vùng đất mà các “đồng chí” của họ đã nằm đó từ những trận công đồn trước đây.

Trong cảnh tận cùng của thê lương, không ai – ngay cả vợ con của các anh Nghĩa Quân – còn giọt nước mắt nào để biểu lộ niềm đau khổ của mình! Ngoài tiếng xào xạc của khóm tre, không ai có thể nghe được bất cứ tiếng động nào nơi bờ sông nhuộm máu này!

Sau khi tiễn vị Tướng Vùng cùng phái đoàn trở lại bãi đáp dã chiến, thiếu tá Quận trưởng, chỉ huy trưởng đoàn giang đỉnh và Dân đứng chờ trong khi vị Tướng Vùng và phái đoàn bước lên trực thăng. Trực thăng quay cánh quạt, vừa nâng thân tàu lên, thiếu tá Quận trưởng, chỉ huy trưởng đoàn giang đỉnh và Dân đưa tay phải lên, chào.

Trở lại đồn, sau một lúc bàn thảo, Dân cùng mọi người đi thẳng đến đoàn chiến đỉnh để về Quận họp hành quân, hoạch định kế sách thích ứng và biện pháp hữu hiệu hơn để tránh bớt tổn thất.

Chiều, từ Quận trở về, vừa từ chiếc Fom nhảy lên bờ, Dân thấy một người Nghĩa Quân bước vội đến, nói:

- Trình thiếu úy, cô Tím bị Việt cộng bắt đi tối hôm qua! 

- Thiệt không, mày?

- Cả làng đều biết! Bộ tui dám giỡn mặt với ông thầy sao?

Dân mím môi thật chặt. Sau khi người Nghĩa Quân quay đi, Dân nghẹn ngào nhìn ra dòng sông Cái Lớn, lòng xót xa tự hỏi, không biết giờ này Tím bị địch hành xử như thế nào? Tại sao một cô bé quê hiền lành, chất phát, thiệt thà như Tím mà cũng bị chúng nó lôi vào cuộc chiến một cách tàn bạo như thế?

Bất ngờ, từ radio trên một trong các chiến đỉnh, dòng nhạc quen thuộc văng vẳng trong ánh nắng chiều. Với cõi lòng tan tác như vết tích của chiến trận đêm qua còn vương vãi trong sân đồn, Dân chậm bước, lắng nghe. Đến đoạn cuối, Dân tưởng như ca sĩ đang tỏ bày nỗi niềm thiết tha của Dân âm thầm dành cho Tím:


 “… Nhiều năm trời chẳng thương mình
Để anh thành kẻ bạc tình
Cầu xin cho mây về vui với gió
Dù có qua bao đắng cay
Muôn đời anh vẫn chờ em.” 

Đọc đến đây, Danny không thể đọc tiếp, vì quá xúc động! Cả một dĩ vãng hào hùng, khốn khó lẫn đau thương trong cuộc chiến bừng sống trong hồn chàng. Nhìn tên tác giả bài tự truyện, thấy chữ Tiffany Trần, Dân cố vận dụng trí nhớ xem trong số sinh viên ban Anh văn – do Dân giảng dạy tại Community College – cô nào tên là Tiffany Trần; nhưng không thể nhớ được.

Từ khi Hoa Kỳ có lệnh “cách ly” vì Covid-19, theo lệnh của tiểu bang, trường học đóng cửa. Học sinh, sinh viên học online. Giáo sư cũng dạy online. Để tạo nguồn cảm hứng cho sinh viên trong thời “Tàu dịch”, Dân đưa đề tài: “Hãy viết tự truyện về một phần đời của bạn”. Vì đa số sinh viên lớp Anh văn đều là người Á Đông và người Mễ, Dân đặc biệt cho phép sinh viên có thể chọn tiếng Việt hoặc tiếng Anh để diễn đạt ý tưởng của họ.

Trong những bài tự truyện của sinh viên Việt Nam, Dân nhận thấy, đa số sinh viên không thể phân biệt được trạng thái “cụ thể” và “trừu tượng”; do đó, họ dùng những từ ngữ rất khó chấp nhận và đặt không đúng vi thế, như: Tan chảy, cận nghèo, lâm sàn, trọn gói, thể hiện, điều khiển, v.v… Chỉ có Tự Truyện Của Tím là viết theo văn phong trong sáng – đượm chút mộc mạc, bình dị, rất dễ thương – của thời VNCH. Và cũng chỉ có Tự Truyện Của Tím mới đem đến cho chàng sự xúc động vô bờ như chính chàng đang bước từng bước trên vùng đất xưa.

Sự xúc động vừa lắng dịu, Danny rà rà con chuột vào hồ sơ/danh sách sinh viên để tìm điện thoại/địa chỉ của Tiffany Trần. Sau khi bấm số, nghe tiếng “allo” từ đầu giây bên kia, Danny nói tiếng Việt:

- Cho tôi được tiếp chuyện với Tiffany.

- Xin lỗi, ai đây?

- Tôi là thầy giáo Danny Nguyễn.

Nhận ra vị giáo sư Anh văn của trường Community College mà – sau khi vợ chồng thầy ly dị – nhiều nữ sinh viên Việt Nam sang đây du học đều cố “bẹo hình bẹo dạng” để chinh phục, chỉ với mục đích được ở lại Mỹ một cách hợp pháp, Tiffany hơi lúng túng:

- Dạ… dạ, thưa thầy, em là Tiffany.

Sau vài câu chào hỏi thông thường, Danny hỏi:

 - Tiffany đang làm gì đó?

- Dạ, em đang theo dõi vụ chàng da đen George Floyd và các cuộc bạo loạn ở Mỹ.

- Tiffany nghĩ như thế nào về sự việc đó?

- Dạ, em nhớ người Anh có câu: “Two wrongs don’t make a right”.

- Tiffany chịu khó đọc sách và theo dõi thời sự. Tốt! Bây giờ tôi muốn hỏi Tiffany vài câu về bài Tự Truyện Của Tím, Tiffany có thể giúp tôi hay không?

- Trời! Thầy biểu cả lớp viết thì em viết chứ “sức mấy” mà em dám giúp thầy.

- Tôi chỉ muốn biết, làm thế nào Tiffany có thể biết được những chi tiết xảy ra trong đồn Nghĩa Quân sau đêm cô Tím bị Việt cộng bắt?

- Dạ, sau này gặp lại anh Lộc ở trại tỵ nạn bên Thái Lan, ảnh kể cho em nghe.

 - Thì ra Tiffany là cô Tím. Đúng không?

- Dạ. Dạ, em.

- Làm thế nào Tím biết bài hát “Chờ Người” mà Tím đưa vào bài tự truyện?

- Dạ, anh Lộc kể rằng sau đêm đồn bị tấn công, thiếu úy Dân thường hát bài gì mà… “Chờ em chờ đến bao giờ…”. Em “để bụng” mấy chữ đó. Khi biết dùng iPhone em vô Google tìm thì thấy lời ca nguyên bài.

- Làm thế nào Tím biết được tâm trạng của thiếu úy Dân mà Tím viết?

- Em cứ “suy bụng ta ra bụng người”. Em nghĩ về ổng sao thì em cứ cho là ổng cũng nghĩ về em y vậy – như là niềm ước mơ vậy mà!

- Làm thế nào Tím thoát được bàn tay Việt cộng?

- Dạ, dễ ẹc hà, thầy! Sau thời gian ngắn, tạo được sự tin tưởng của tụi ôn dịch, tụi nó cho em đi theo mấy chiếc tác ráng để học cách làm giao liên. Một buổi chiều, chiếc tắc ráng chở em bất ngờ gặp đoàn tàu của Hải Quân VNCH từ sông Trèm Trẹm chạy ra. Em nhảy đại xuống sông, lặn thiệt sâu, thiệt lâu. Khi hụt hơi em trồi lên, bơi theo hai chiếc tàu nhỏ chạy sau cùng và được mấy ông Hải Quân vớt.

- Còn chiếc tắc ráng?

- Dạ, thấy tàu Hải Quân tụi ôn dịch dông mất tiêu chứ sức mấy mà dám lạng wạng!

- Ngã ba sông Cái Lớn và kinh Trèm Trẹm sâu lắm mà sao Tím dám nhảy xuống?

- Dạ, con nít miệt vườn như tụi em bơi như cá chứ nhầm nhò gì đâu!

- Làm thế nào Tím có thể trốn khỏi Việt Nam?

- Dạ, sau khi cứu được em, mấy ông Hải Quân đưa em qua Rạch Sỏi, nhắn anh Lắm vô Rạch Sỏi nhận em. Anh Lắm nhắn tin cho Cha Mẹ em biết chứ ảnh hỏng cho em trở lại làng xưa. Sau đó, ban ngày em phụ với Thiếm bán cá ở chợ Rạch Giá; ban đêm anh Lắm và em đi học Anh văn. Sau khi tụi ôn dịch cưỡng chiếm miền Nam, Chú Thiếm dùng ghe nhà đưa gia đình của Chú Thiếm, anh Lắm và em ra biển rồi qua Thái Lan.

-  Tím đã tự cứu mình, tìm được cuộc sống mới mà còn đi học thêm. Giỏi lắm!

- Dạ, em đi học cho vui, vì em về hưu non, ở nhà một mình buồn muốn chết!

- Nếu vậy thì về hưu non để làm gì?

- Dạ, cuộc đời của em đã “bầm dập/nát nước”, không còn gì nữa! Sống được tới giờ là may rồi, bon chen cho lắm cũng bù trất thôi!

- Sao bi quan quá vậy? Hãy tìm vui bên con cháu. Đừng nghĩ bậy!

- Mèng ơi! Em có lấy chồng đâu mà có con, có cháu, thầy!

-Tại sao Tím không lập gia đình?

- Dạ, cuộc đời em te tua quá đổi! Hết bị Việt cộng dần thì tới hải tặc dần! Em chỉ là cái xác không hồn chứ còn gì đâu! Em đã tự phá thai hai lần; tưởng chết rồi! Từ đó, em triền miên sống trong sự dày vò và ân hận! Lấy ông nào mà em cứ bị những hình ảnh hãi hùng của tụi ôn dịch, tụi hải tặc và hai thai nhi vô tội dằn vặt thì chỉ tội nghiệp cho ông đó chứ ích lợi gì đâu, thầy!

Không thể đè nén tình cảm lâu hơn nữa, Danny nói:

- Tôi sẽ gặp Tím trong vòng một tiếng đồng hồ.

Với bản tính chất phát, thật thà, chưa bao giờ Tím nghi ngờ Danny Nguyễn chính là thiếu úy Nguyễn Dân; vì vậy, Tím rất bối rối: 

- Dạ…dạ…chi vậy, thầy? Em có nói gì tầm bậy không? Thầy làm em lo wá hà!

Dân cười, lập lại câu nói của chàng rồi tắt điện thoại.

Cho xe chạy với tốc độ vừa phải, Dân vừa nghe GPS chỉ đường vừa mở radio. Giọng nam đang trình bày tình khúc Just the Way You Are của Billy Joel. Dân vừa gật đầu nhè nhẹ vừa hát theo nho nhỏ:

 “…I wouldn't leave you in times of trouble
We never could have come this far
I took the good times; I'll take the bad times
I'll take you just the way you are...”

Dân mỉm cười, vuốt mái tóc muối nhiều hơn tiêu, lòng lâng lâng trong niềm vui dịu dàng…