Friday, September 29, 2017

Đèn sáp của Nhật làm từ hạt sáp (wax seeds)

Các chùa ở Nhật , họ thắp đèn sáp loại này để chùa không bị ám khói đen ...

Xperia Touch

Xperia Touch là sản phẩm của Nhật , với hộp này  bạn có thể "quẹt" trên bàn , trên tuờng hay bất cứ mặt phẳng nào để xem tin, chơi game , vv...

Thursday, September 28, 2017

Mai Hoa - Làng Văn 54 - Cassette



Mây Hồng 10 - Reel


Hát xoan ở Phú Thọ , Việt Nam đuợc UNESCO chọn

Ngày 24/11/2011 , UNESCO tổ chức tại Bali - Indonesia, công nhận hát xoan - Phú Thọ là Di sản văn hóa của nhân loại

Hát Xoan còn được gọi là Khúc môn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần, tương truyền có từ thời các vua Hùng. Thuở xa xưa, người Văn Lang tổ chức các cuộc hát Xoan vào mùa xuân để đón chào năm mới. Có 3 hình thức hát xoan: hát thờ cúng các vua Hùng và Thành hoàng làng; hát nghi lễ cầu mùa tốt tươi, cầu sức khỏe; và hát lễ hội là hình thức để nam nữ giao duyên.

 1. Lịch sử
Theo sử sách ghi lại thì hát Xoan đã tồn tại hơn 2.000 năm, là di sản văn hóa dân gian hết sức quý báu. Trên chặng đường dài đó, loại hình nghệ thuật này đã được nhiều người có vị thế và uy tín trong xã hội, nhiều văn nhân thi sĩ nâng đỡ, tạo điều kiện cho phát triển. Trong đó có phần công lao to lớn của bà Lê Thị Lan Xuân, mà phường Xoan truyền tụng như một ân nhân. Để tỏ lòng biết ơn bà, các phường Xuân kiêng tên bà gọi chệch đi là hát Xoan.
Các làn điệu Xoan cổ đều được bắt nguồn từ những làng cổ nằm ở địa bàn trung tâm bộ Văn Lang thời các vua Hùng dựng nước. Gốc của hát Xoan ở vùng Phú Thọ, sau đó lan tỏa tới các làng quê thuộc đôi bờ sông Lô, sông Hồng, qua cả tỉnh Vĩnh Phúc. Bốn phường Xoan cổ là An Thái, Phù Đức, Kim Đới và Thét nằm ở 2 xã Kim Đức và Phương Lâu (Phú Thọ).

2. Giá trị văn hóa 

Ca nhạc của Xoan là ca nhạc biểu diễn với đầy đủ các dạng thức nhạc hát: hát nói, hát ngâm, ngâm thơ và ca khúc; có đồng ca nữ, đồng ca nam, tốp ca, đối ca, hát đa thanh, hát đuổi, hát đan xen, hát có lĩnh xướng và hát đối đáp. Về sắc thái âm nhạc, nhạc Xoan vừa có những giọng nghiêm trang, thong thả vừa có những điệu dồn đuổi khỏe mạnh, lại có những giọng duyên dáng, trữ tình.
Trong hát Xoan, múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau, dùng điệu múa minh họa nội dung cho lời ca. Các tiết mục múa hát thường theo thứ tự nhất định.

Mở đầu là 4 tiết mục có tính nghi thức, mang nội dung khấn nguyện, chúc tụng, xen mô tả sản xuất. Đây là những bài ca cổ, chủ yếu hát nói hoặc ngâm ngợi; theo thứ tự: giáo trống, giáo pháo, thơ nhang, đóng đám.

Tiếp theo là phần hát cách (còn gọi là quả cách). Trong phần này, ông Trùm hoặc một kép chính giở sách ngân nga 14 bài thơ nôm dài với giọng phụ họa của các cô đào đứng ở phía sau. Mười bốn quả cách trong hát Xoan là những áng thơ khuyết danh với các đề tài khác nhau như: mô tả lao động, sinh hoạt ở nông thôn, ca ngợi cảnh vật thiên nhiên, kể các tích chuyện xưa. Sau phần hát cách đến các tiết mục có tính chất dân gian với nội dung đậm nét trữ tình, mang dáng dấp của các bài dân ca, ví giao duyên, hát trống quân.

Mỗi tiết mục nối tiếp nhau ở đây thường gắn với những động tác và đội hình múa, hoặc lối diễn mang tính chất hoạt cảnh như: hát gái, bỏ bộ, xin huê, đố huê, đố chữ, gài huê, hát đúm, đánh cá... Sức sống của hát Xoan chính là ở sự kết hợp của loại hình hát lễ nghi với hát giao duyên, tồn tại lâu dài và được nhiều thế hệ yêu thích.
Hát Xoan có tổ chức hết sức chặt chẽ. Những người đi hát Xoan thường sống cùng chòm xóm và tổ chức thành phường. Đây là một tổ chức văn nghệ nghiệp dư của những người cùng làng, phần lớn có quan hệ họ hàng với nhau. Người đứng đầu một phường Xoan (hay họ Xoan) gọi là ông Trùm.

Ông Trùm là một người có kinh nghiệm về nghề nghiệp xã giao và viết chữ để hát dẫn một số bài dài được chép bằng văn tự. Các thành viên thì gọi trai là Kép, gái là Đào. Mỗi phường Xoan có khoảng 15 đến 18 người. Nam mặc áo the, khăn xếp, quần trắng; nữ mặc áo năm thân, khăn mỏ quạ, áo cánh trắng, yếm điều, thắt lưng bao, dải yếm các mầu, quần lụa, đeo xà tích. Những làng có người đi hát Xoan này nước nghĩa với phường Xoan và các phường Xoan cũng nước nghĩa với nhau. Họ coi nhau thân thiết như anh em, nhưng tuyệt đối đào kép Xoan không được lấy nam nữ thanh niên của làng nước nghĩa.
Hát xoan là hình thức âm nhạc cổ, kết hợp được yếu tố văn hóa, lịch sử và nghệ thuật, độc đáo ở lời ca, giai điệu và làn điệu; chứa đựng nhiều giá trị văn hóa và được cộng đồng gìn giữ qua nhiều thế kỷ, không bị biến mất trong đời sống hiện đại.

Hát Xoan thường được biểu diễn vào các dịp: Vào mùa xuân: các phường Xoan ở tỉnh Phú Thọ lần lượt khai xuân ở đình, miếu ngay từ mùng một Tết đầu năm. Buổi sáng các ngày Tết, phường Xoan làng nào hát ở đình làng ấy, tới chiều tối, các phường Xoan lại họp lại với nhau lần lượt hát ở đình, miếu như sau: mùng một, hát ở đình Cả và miếu Cấm làng An Thái (xã Phượng Lâu, thành phố Việt Trì); mùng hai, hát ở đình Đơi làng Kim Đới; mùng ba, hát ở miếu Lãi Lèn làng Phù Đức; mùng bốn, hát ở đình Thét làng Thét (xã Kim Đức, thành phố Việt Trì). Vào ngày mùng 5, thường hát ở đền Hùng (xã Hy Cương, thành phố Việt Trì). Thời điểm hát được quy định tại một điểm hát nhất định, mỗi “phường” chọn một vị trí cửa đình.


Nguồn: UNESCO - Di Sản Thế Giới

Wednesday, September 27, 2017

Dạo phố Graz, Austria

Hai bức tượng Phật lớn nhất thế giới trong núi đá Bamiyan, Afghanistan bị phiến quân Taliban giựt sập 3/2011

Hai bức tượng Phật được khắc sâu vào núi đá ở Bamiyan, Afghanistan đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa vào năm 2003.


Đây là hai bức tượng lớn nhất thế giới được khắc sâu vào núi đá. Hai bức tượng này có niên đại cách đây khoảng trên 1500 năm. Một bức tượng cao 53m và bức còn lại cao 38m.

Điều đáng buồn là vào tháng 3 năm 2011, phiến quân Taliban đã dùng thuốc nổ đánh sập cả hai bức tượng này. Cả thế giới đã bất lực chứng kiến cảnh hai bức tượng bị đánh sập với sự tiếc nuối không thể diễn đạt thành lời. Hành động phi văn hóa này của Taliban đã làm cả thế giới phẫn nộ và lên án.

Bức tượng sau khi bị phá hủy chỉ còn lại một hốc lớn trên đá núi. 

 Ngược dòng lịch sử, Afghanistan là trung tâm Phật giáo phát triển rực rỡ khoảng thời gian đầu công nguyên nhờ công đức hoằng pháp của đại đế Asoka (A Dục vương) ở thế kỷ thứ III trước công nguyên. Đây là con đường tơ lụa duy nhất nối liền các vùng từ Đông sang Tây, từ Ấn Độ và các nước trong khu vực. Các vị cao tăng Phật giáo thường tháp tùng các đoàn buôn để hoằng pháp ở các vùng đất mới bằng con đường này. Họ thường dừng chân nghỉ ngơi ở thung lũng Bamiyan xinh đẹp, lâu ngày nơi đây trở thành trung tâm truyền bá Phật pháp, và hai tượng Phật cao nhất thế giới cũng được tạo ra vào đầu thời điểm này.

Ngay cả một số bậc Tổ sư, sử luận nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo cũng xuất hiện từ nơi này. Đến thế kỷ thứ VII, Hồi giáo tràn vào Afghanistan, đạo Phật có nguy cơ bị thôn tính, các vị cao tăng từ từ rời bỏ Bamiyan. Phật giáo nơi đây mất dần vị thế, chỉ còn lại những chùa chiền và tượng Phật. Theo thời gian, chùa chiền bị phá hủy, các tượng cũng bị mất dần hoặc phá hủy. Hai bức tượng Phật Bamiyan nổi tiếng sở dĩ còn tồn tại được hơn 1500 năm là do chúng được chạm vào vách núi.

Theo sử sách ghi lại thời điểm tạo nên pho tượng Phật nhỏ (cao khoảng 38m) là năm 507, tượng Phật lớn (cao 53m) là năm 554. Sau khi hai pho tượng khổng lồ này bị phá huỷ thì nhóm Taliban cũng bị diệt vong và người ta đã tin rằng đấy là sự trừng phạt dành cho phiến quân Taliban.
Đứng từ xa nhìn lại cũng dễ dàng thấy hình ảnh bức tượng Phật chứng tỏ sự to lớn của bức tượng này.
Cũng sau khi hai pho tượng khổng lồ bị phá hủy, các nhà khoa học đã phát hiện ra nhiều điều lý thú vị:

Đầu tiên, hai pho tượng Phật được chạm khắc sơ bộ vào đá, sau đó người ta dùng một hỗn hợp đất sét, rơm và lông đuôi ngựa đắp thành trang phục rồi mới tô màu. Công nhân ở đây đã tìm được khoảng hơn 3000 miếng đắp trát bề ngoài với những chất liệu pha màu và cả những nêm gỗ, sợi thừng quấn quanh pho tượng đá để giữ chắc phần đắp trát. Khí hậu khô hanh ở Afghanistan và độ sâu của hốc đá đã bảo vệ tốt pho tượng và giúp bảo quản phần mộc của công trình.
Tượng Phật Lớn được sơn bằng cánh kiến đỏ, còn tượng Phật Nhỏ được sơn bằng nhiều chất liệu màu. Phát hiện kỳ thú nhất là một tay nải, trong chứa ba chuỗi tràng hạt bằng gốm, bản in khắc bằng đất sét và một số trang kinh Phật in trên vỏ cây. Có thể nhận định rằng tay nải được đeo vào ngực tượng Phật Lớn và được trát trong lúc hoàn thiện pho tượng.
Khu vực chân bức tượng sau khi bị phá hủy chỉ còn lại nên đất.
Hôm nay, dẫu hai pho tượng Phật cổ và lớn nhất thế giới ở Bamiyan đã bị súng đạn của phiến quân cực đoan Taliban phá hủy, nhưng nhiều tượng Phật đã và vẫn đang được dựng lên huy hoàng trong tâm thức của mỗi người ở khắp năm châu và trong lịch sử của nhân loại. Khu vực trước kia là vị trí hai bức tượng hiện nay vẫn được bảo vệ nghiêm ngặt và các nhà khoa học đã tiến hành việc trùng tu , bảo tồn hai khoảng trống trên vách đá vốn là nơi bức tượng từng hiện diện.

 Nguồn: Di Sản Thế Giới

Tuesday, September 26, 2017

Lòng trung trực

Hôm chủ nhật 24/9 thấy cảnh trên tivi chuyện mấy ông trong đội football không chào cờ làm tôi bất mãn lắm .  Có đài truyền hình nào đó chụp đuợc anh chàng ở trong đội bóng, anh chọn đứng nghiêm, để tay lên trái tim và hát Quốc ca  chứ không quỳ.   Thời nay thật hiếm thấy những nguời có lòng trung trực với nuớc với dân , chỉ toàn một lũ hùa theo cái xấu để phá cho hôi cho nát, cho thoả lòng thù hận  

Trông ảnh của anh Alejandro Villanueva trên tivi làm tôi nhớ đến tấm ảnh ở Đức cách đây 80 năm cũng trong tình huống "tương tự" như ngày hôm nay của Hoa Kỳ

Năm 1936, trong buổi lễ hạ thủy một con tàu của Đức Quốc Xã tại một nhà máy đóng tàu thuộc thành phố Hamburg Đức. Mọi người đều giơ tay lên chào theo kiểu Nazi (Đảng Quốc Xã) nhưng có một người đàn ông đã từ chối làm việc đó. Bởi vì, trước đó ông đã kết hôn với một phụ nữ Do Thái nên bị kết án hai năm lao động khổ sai. Trong thế chiến thứ II, ông đã mất tích. 

Vào năm 1991 khi bức ảnh được công bố, có một người phụ nữ đã nhận ra đó là cha mình và cho biết tên của ông là August Landmesser.

(sưu tầm)

Giọt Lệ Trong Hồn - Kim Hyun Hee


Giọng đọc: Alpha Bê

http://www.mediafire.com/file/bkb89de72abkod9/Giot_Le_Trong_Hon_-_00_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/0ofiw337dbzi1be/Giot_Le_Trong_Hon_-_01_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/xf1dsxnutnrqr49/Giot_Le_Trong_Hon_-_02_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/jagqca73aduoq3q/Giot_Le_Trong_Hon_-_03_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/1ci82z2t7hfw2me/Giot_Le_Trong_Hon_-_04_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/a4zz2qh8efayhzu/Giot_Le_Trong_Hon_-_05_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/woa7d4lcr2vv1nb/Giot_Le_Trong_Hon_-_06_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/m1x4ecd3xeu5nml/Giot_Le_Trong_Hon_-_07_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/4u7g8p307l0pcl7/Giot_Le_Trong_Hon_-_08_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/75ymwf5fb7wgrre/Giot_Le_Trong_Hon_-_09_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/vgkcqq4i198dbcb/Giot_Le_Trong_Hon_-_10_-_AB_Doc.mp3
http://www.mediafire.com/file/4ji2xi1ahu588n5/Giot_Le_Trong_Hon_-_11_-_AB_Doc.mp3

Hết



Cho Trọn Cuộc Tình - Quỳnh Giao


Giọng đọc: Thanh Phương - Thanh Toàn

http://www.mediafire.com/file/5ovfhaz8vtgx7ov/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_1.mp3
http://www.mediafire.com/file/ky5qckwlvk2a2c4/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_2.mp3
http://www.mediafire.com/file/3qcecq21fmnbgse/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_3.mp3
http://www.mediafire.com/file/3hwjrkkt5udt4nn/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_4.mp3
http://www.mediafire.com/file/b8s1kvng9hg4b4j/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_5.mp3
http://www.mediafire.com/file/th6v73yaa8h1r1q/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_6.mp3
http://www.mediafire.com/file/bc6hllji2ua5urc/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_7.mp3
http://www.mediafire.com/file/49971or2q9nhj0d/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_8.mp3
http://www.mediafire.com/file/1ef3073jcz7mfz8/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_9.mp3
http://www.mediafire.com/file/8hpow7j3bbc6o5o/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_10.mp3
http://www.mediafire.com/file/pmlbf989ho4chzw/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_11.mp3
http://www.mediafire.com/file/qdb271jqju5nbb8/Cho_Tron_Cuoc_Tinh_12.mp3

Hết

Dạo phố Kotor, Montenegro

10 thánh đuờng tu viện trong hang đá rất linh thiêng của nuớc Ý

Một trong những cách lý thú nhất để thưởng ngoạn nước Ý chính là lần theo những ngõ đường tôn giáo từ bắc đến nam, đưa chân du khách và người hành hương đến những địa điểm dường như nằm ngoài thế tục. Kể từ thuở ban đầu của Kitô giáo, các nhà thờ, tu viện, thánh đường đã trở thành một phần của những triền núi, hay chọn cách ẩn mình bên dưới những tuyệt tác của tự nhiên, thu hút những dòng người mộ đạo lẫn các du khách từ khắp nơi trên thế giới.

1) Đền thánh Madonna Della Corona

Tượng Đức Mẹ hiển linh

Nằm không xa thành phố Verona và khu hồ lớn nhất của Ý là Garda, Đền Thánh Madonna Della Corona được xem là báu vật pha trộn sự hùng vĩ của tự nhiên và bàn tay sắc sảo của con người. Neo mình một cách tinh tế ở độ cao 774m bên rìa rặng núi Monte Baldo, công trình này được đẽo khắc hoàn toàn vào núi, với tầm nhìn bao quát xuống thung lũng Adige phía dưới. Đó là lý do tại sao tên của nhà thờ lại có chữ Corona, chỉ hình dạng dãy núi bao quanh nó, và khi nghĩ đến nơi đây, ai nấy đều nhớ cụm từ mô tả “địa điểm nằm giữa thiên đường và chốn nhân gian”.

Kể từ thế kỷ 11, Monte Baldo (núi đá đang chứa chấp nhà thờ) là nơi một số tu sĩ sống cuộc đời ẩn dật và cầu nguyện. Các tài liệu thời Trung cổ có ghi rằng, những tu sĩ này có quan hệ với Tu viện thành Zeno ở Verona. Phải đợi đến thế kỷ 13, các ẩn sĩ mới bắt tay xây dựng tu viện cùng nhà thờ nhỏ bé và đơn giản vinh danh Đức Mẹ xứ Montebaldo. Thời đó, con đường duy nhất đến được tu viện phải thông qua lối đi nhỏ hẹp và vô cùng nguy hiểm, được các tu sĩ miệt mài khoét núi trong nhiều năm. Một số đoạn vẫn còn có thể đi được vào ngày nay.

Tương truyền, vào giữa đêm tăm tối của năm 1522, một vầng hào quang bí ẩn đã thắp sáng cả thung lũng, đánh động người dân trong vùng. Ai nấy đều choàng tỉnh và tập trung lại với nhau để cùng chứng kiến hiện tượng không rõ từ đâu. Một số người quyết định trèo lên lưng chừng núi và nhìn thấy một bức tượng Đức Mẹ ở đây. Những người địa phương đã hợp lực xây một nhà thờ nhỏ để tưởng nhớ sự kiện linh thiêng và mầu nhiệm đó.

Những bậc thang tạc vào đá

Để đến được nhà thờ nằm cheo leo nơi vách núi, đa số khách hành hương đều chọn Via Santuario (Đường Đền Thánh), con đường dài với nhiều bậc thang được khắc từ núi đá, khởi đầu từ ngôi làng nhỏ Brentino ở thung lũng với khoảng 1540 bậc, vượt qua độ cao 550m trước khi đến nhà thờ. Thông thường phải mất khoảng 2 giờ để leo đến nơi và thêm 1 giờ rưỡi nếu muốn xuống núi. Bên cạnh con đường nhọc nhằn trên, những người thể lực yếu có thể đến nhà thờ thông qua con đường từ làng Spiazzi trên đỉnh núi và đi xuống thông qua đường hầm khoét xuyên đá từ năm 1922. Điểm đáng chú ý của con đường trên chính là 14 chặng đàng thánh giá bằng đồng, tạo thêm nét thú vị cho những người hành hương đến nơi này.

Theo thời gian, Đền thánh Madonna Della Corona được san bằng và xây dựng lại nhiều lần. Đến nay, nơi đây vẫn là địa điểm hành hương thu hút các tín đồ Kitô đến thăm và tham quan Scala Santa, một phiên bản của Những bậc thang Thánh đối diện Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô tại Rome. Đây là các bậc thang Chúa Giêsu từng đi qua để đến nơi bị xét xử. Tại các hốc tường của nhà thờ hiện đại vẫn còn bức họa từ thế kỷ 14 vẽ Đức mẹ Maria và Chúa hài đồng, cũng như một bức tượng Pieta có cùng niên đại. Bên cạnh đó, trên bức tường bên phải của nhà thờ trưng bày vô số lễ vật dâng lên Thiên Chúa và Đức Nữ Đồng Trinh từ bao thế hệ người hành hương. Tổng cộng có 167 tấm ở nhiều kích thước, một số có từ năm 1547.

Vào năm 1974, nhà thờ trải qua một đợt trùng tu, theo đó một phần cấu trúc bị phá bỏ và xây mới, nhưng vẫn giữ được những đường nét và thần thái ban đầu.

2) Tu viện Santa Cateina del Sasso

Tu viện Santa Caterina del Sasso được mệnh danh là thiên đường nơi trần thế, nép mình vào núi và hướng ra hồ nước hữu tình. Tương truyền nơi này đã được phát hiện và xây dựng bởi một người đàn ông suýt nữa rơi vào “địa ngục”.

Nằm chênh vênh trên “ban công” tự nhiên là tảng đá nhìn ra mặt hồ Lago Maggiore, tu viện Santa Caterina del Sasso thật sự là một trong những quang cảnh nổi tiếng tuyệt đẹp và đầy dấu ấn lịch sử của vùng hồ nằm ở rìa nam của dãy Alps. Những người hành hương có thể leo lên điểm đặt tu viện bằng cách thông qua dãy thang đá gồm 88 bậc từ hướng mặt hồ, hoặc đi xuống hơn 200 bậc từ bãi đậu xe ở phía trên.

Tu viện đã được sáng lập vào thế kỷ 12. Theo truyền thuyết, vào thời điểm đó, Alberto Besozzi, một thương nhân và chuyên cho vay nặng lãi giàu có người Milan, đã bị mắc kẹt trong một trận bão cuồng nộ khi đi thuyền trên hồ Maggiore. Trong những thời khắc tuyệt vọng nhất, ông lên tiếng khẩn cầu sự cứu giúp của thánh nữ Catherine xứ Alexandria. Và Besozzi đã thoát chết trong gang tấc nhờ ơn của bề trên, sau khi sóng to gió lớn giúp đẩy xác tàu vào vách đá, cho phép ông tìm được một cái hang trú ẩn qua bão.

Dựa trên nội dung của trường ca nổi tiếng mang tên Thần khúc của nhà thơ Ý Dante vào thời Trung cổ, nếu thiệt mạng vào thời khắc đó, ông Besozzi nhiều khả năng sẽ chịu cảnh bị đày đọa thiên thu trong lửa luyện ngục như những kẻ cho vay nặng lãi khác. Thay vào đó, theo sau sự kiện mầu nhiệm giúp cứu rỗi linh hồn của thương nhân thành Milan, ông quyết định thay đổi cuộc đời để có thể tiến nhập thiên đàng sau khi chết: trở thành ẩn sĩ. Kế bên cái hang mà ông cư ngụ, vào năm 1195, Besozzi đã cho xây một nhà nguyện nhỏ, và sau khi qua đời đã được chôn tại đây. Một phần di vật của Besozzi đã được lưu giữ trong nhà nguyện kể từ năm 1535.

Sau đó vào năm 1640, một sự kiện phi thường khác đã xảy ra tại đây: 5 tảng đá khổng lồ lăn khỏi vách đá và lao qua trần nhà nguyện nơi đặt nấm mồ của ông Besozzi. Tuy nhiên, điều kỳ diệu là chẳng hòn đá nào rơi trúng ngôi mộ của vị tu sĩ. Cũng vì thế mà dân địa phương xem đây là một phép mầu khác của nơi này, và một số người còn cho rằng nó chính là nguồn gốc của từ “sasso” (đá) trong chuỗi tên dài của tu viện trong quang cảnh như tranh vẽ này.

Kiến trúc đặc trưng thời Phục Hưng

Nhà nguyện ngày xưa giờ đây đã được dung hợp vào các cấu trúc đẹp đẽ khác được xây từ thế kỷ thứ 13 và 17 nhờ vào công sức của những người dân địa phương và các cộng đồng tôn giáo khác nhau, có thể kể đến dòng Đa Minh, dòng Augustinô, dòng Cát Minh, dòng Biển Đức… Về mặt tổng thể, tu viện bao gồm 3 phần chính, gồm nhà tu kín phía nam, tu viện nhỏ và nhà thờ. Trong đó, phần phía nam được xây dựng vào thế kỷ 15 và sau đó được cha Giulio Martignoni cho xây lại vào năm 1624 khi cấu trúc cũ bằng gỗ đổ sụp xuống hồ. Tu viện nhỏ, nằm đối diện sân trong, được xây trên những bức tường hồi thế kỷ 13. Nhà ăn ở tầng trệt, nơi ở của các tu sĩ ở lầu 1, bên trên các khung cửa sổ của từng căn phòng vẫn còn lại dấu vết của bức bích họa từ thế kỷ 16 mô tả cảnh tượng “Martyrdom of St Catherine of Alexandria”, tạm dịch “Cuộc tử đạo của thánh Catherine xứ Alexandria”.

Những bức bích họa trên mái vòm nhà nguyện và các phòng trong tu viện

Bên cạnh đó, các bức tường của mái vòm lưu giữ những tấm bích họa quan trọng khác vào thế kỷ 16, vẽ lại các thánh nữ Lucia, Maddalena, Caterina; Phêrô xứ Verona và Nicôla xứ Bari. Trong nhà thờ, từ trên cao ở hướng bệ thờ là hình ảnh Chúa Giêsu được mô tả bên trong quầng hào quang, xung quanh là các biểu tượng của 4 vị thánh sử (Mátthêu, Maccô, Luca và Gioan), và hình tượng các tiến sĩ hội thánh được mô tả ở hai cánh bên. Và nhờ vào công cuộc phục hồi gần đây nhất, phần còn lại của các bức bích họa từ thế kỷ 14 cuối cùng đã lộ diện trước ánh sáng, cho phép khách hành hương thưởng lãm một cảnh tượng sống động của sự kiện Chúa chịu khổ hình trên thập tự giá.

Khu sân bên trong tòa nhà mở cửa hướng đến nhà thờ, nơi mái cổng được hình thành từ 4 vòm cung xây theo kiến trúc phục hưng. Tháp chuông cao 15m cheo leo nơi vách đá được xây từ thế kỷ 14, với các cửa sổ làm bằng đá Angera.

3) Thánh đường Valadier trong hang động

Một nhà thờ thanh thoát và thánh thiện đã mọc lên giữa những mỏm đá lởm chởm của hẻm núi lọt thỏm giữa các ngọn núi lớn, đó là thánh đường Valadier ở thị trấn Genga của vùng Marche, miền trung Ý.

Nằm giấu mình bên trong những ngọn núi của thị trấn Genga là một bí mật hùng vĩ. Khu vực này là quê hương của các hang động Frasassi nổi tiếng, thu hút một lượng lớn du khách lũ lượt đến đây mỗi năm. Tuy nhiên, đối với những người hành hương muốn tìm một điểm để cầu nguyện, chỉ cần bỏ thêm công sức tiến sâu vào vùng núi gập ghềnh, họ sẽ nhận được tưởng thưởng thích đáng. Đi dọc theo các bậc thang khá dốc kéo dài gần 2 km sẽ đến nơi được gọi là “Chốn nương thân của những tội đồ”.

Thánh đường Valadier, còn có tên Il Tempio del Valadier, là một nhà thờ hình bát giác được xây bên trong hang động của Ý. Ẩn mình trong miệng hang cao ngất, cấu trúc nhà thờ mang xu hướng tân cổ điển, tạo nên sự tương phản thú vị trong quang cảnh những vách hang được tự nhiên nhào nặn. Trước cặp mắt của những người giàu sức tưởng tượng, có vẻ như bản thân ngôi thánh đường đang cố tìm nơi nương náu trong hang động đẹp đẽ. Trên thực tế, trước khi nhà thờ được xây dựng vào thế kỷ 19, nơi đây thường xuyên trở thành địa điểm trú ẩn của người dân địa phương trước những cuộc tấn công từ bên ngoài, có thể là những bộ tộc đối địch hoặc kẻ cướp bóc. Theo ghi chép của lịch sử và những câu chuyện truyền miệng, ít nhất từ thế kỷ thứ 10, hang động đã trở thành nơi chứa chấp dân tị nạn trong hàng trăm năm. Các bộ hài cốt của những người lánh nạn thời xưa đã được tìm thấy khi thánh đường được xây dựng vào năm 1828 theo lệnh của Đức Giáo Hoàng Lêô XII, cũng là người sinh ra ở Genga.

Cái tên của thánh đường đặc biệt này được đặt theo tên của kiến trúc sư xây dựng nhà thờ, ông Giuseppe Valadier (1762-1839), người chủ trì kiến trúc tân cổ điển tại Ý. Nhà thờ hình bát giác có một mái vòm chính, với các bức tường làm bằng một dạng đặc biệt của đá vôi tự nhiên travertine, lấy trực tiếp từ các hang động Frasassi kế bên. Tám cạnh của tòa nhà biểu tượng cho hình ảnh Sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Bên trong nhà thờ nhỏ bé là một bức tượng Madonna with Child (Đức Mẹ và Hài Nhi), là phiên bản của bức tượng ban đầu đã được đặt trong hang trước đó. Hiện nguyên mẫu được bảo tồn tại Viện bảo tàng nghệ thuật Genga, và giới chuyên gia chắc chắn rằng đây là một tác phẩm ra lò từ xưởng của nhà điêu khắc nổi tiếng Antonio Canova, nếu không phải là một kiệt tác của kiến trúc tài ba trường phái tân cổ điển Ý.

Lịch sử của nơi này đã biến nhà thờ trở thành chốn tìm kiếm của những người hành hương muốn mưu cầu sự tha thứ về những tội lỗi mà họ đã phạm phải, nên cũng có tên là “Chốn nương thân của những kẻ tội đồ”.

4) Tu viện thánh Bartholomew

Tu viện của Thánh Bartholomew ở Legio là một nơi thiêng liêng được xây khắc vào vách đá ở độ cao 600m so với mặt nước biển, mang lại vẻ đẹp khó cưỡng và thần thánh cho nơi này.
Kể từ khi Chúa Giêsu trải qua 40 ngày ở hoang địa, đối với các Kitô hữu, sự cô tịch là hành vi dâng hiến và đảm bảo cho sự cầu nguyện thành tâm nhất. Những cộng đồng mộ đạo và lánh đời bắt đầu xuất hiện khắp châu Âu vào đầu thế kỷ thứ 3 hoặc thứ 4. Và Hy Lạp, Ireland, Ý là tuyến đầu của quan điểm này, thiết lập truyền thống thành kính bằng việc thực thi lối sống ẩn dật, cô lập, toàn tâm dành cho suy niệm, dẫn đến sự xuất hiện của các tu viện ở những nơi hẻo lánh. Một số cấu trúc dạng này vẫn còn tồn tại đến ngày nay, và tu viện Thánh Bartholomew ở Legio, thuộc thị trấn Roccomorice, là một ví dụ điển hình.

Tu viện Thánh Bartholomew được vinh danh là cấu trúc xây dựng thành hình từ đá nổi tiếng nhất vùng Abruzzo. Bản thân Abruzzo, nằm ở miền trung nước Ý, là nơi ít được thế giới bên ngoài biết đến, dù nơi này đầy rẫy những công viên quốc gia chưa từng bị khai phá, các bãi biển cát nguyên sinh, những tàn tích từ thời La Mã, và thường được xem là “khu vực xanh nhất châu Âu”, theo tờ Independent. Tu viện được xây dựng trên một lộ đá nằm ở độ cao từ 50 đến 700m, và người xưa đã thực hiện được kỳ công khi hoàn thành công trình này ở độ cao 600m, tức gần phần đỉnh của tảng đá khổng lồ. Để đến tu viện, khách hành hương cần sử dụng đến “bậc thang thánh”, một cầu thang được tạc vào đá gồm 26 bước theo phương thẳng đứng.

Ngay khi bước đến bậc cuối cùng của thang, một cảm giác yên bình và tĩnh lặng bất chợt tràn ngập không gian nằm lọt thỏm giữa mỏm đá, theo mô tả của khách hành hương. Thêm một đoạn đường ngắn trước khi bước vào tu viện nhỏ có 3 phòng, gồm một nhà nguyện và hai nhà cho các vị ẩn tu, tất cả đều được đẽo khắc từ lộ đá khổng lồ. Trên chiếc cổng gỗ cũ kỹ vẫn còn hình ảnh của một bức phù điêu mô tả chân dung của Thánh Bartholomew từ thời Trung Cổ, chính xác là có từ giai đoạn Đức Giáo Hoàng Celestino V, người gốc Abruzzo, khi còn là tu sĩ ẩn cư tại đây dưới cái tên Peter xứ Morrone. Tu viện này đã được xây dựng từ thế kỷ 11, trước khi được trùng tu vào thế kỷ 13 (năm 1250) nhờ vào công của Đức Giáo Hoàng Celestino V. Nhưng phải đến năm 1274, tu sĩ Peter mới đến đây trong ít nhất 2 năm, trước khi quay về Lyon để đề nghị Đức Giáo Hoàng Gregory X thừa nhận Dòng tu Thánh Cêlestinô. Tu sĩ Peter trở thành giáo hoàng thứ 192 của Giáo hội vào năm 1294: Đức Celestino V.
Trên ban công có một bể thu thập nước mưa, và các tín hữu đến đây thường có thói quen múc nước uống với hy vọng mang lại phép lành và giúp cơ thể khỏe mạnh. Bên trong nhà nguyện nhỏ có diện tích gần 8m x 4m là một bệ thờ đơn giản, bên trên đặt tượng của Thánh Bartholomew. Khách hành hương thường đến tu viện này vào ngày 25.8, nhân lễ kính Thánh Bartholomew, kéo dài trong 3 ngày
5) Tu viện San Besso , nhà thờ nép duới đá tảng
Nhà thờ San Besso nằm bên dưới một tảng đá khổng lồ, thuộc một trong những khu vực hoang dã nhất của công viên quốc gia Gran Paradiso nổi tiếng và lâu đời nhất nước Ý.
Công viên quốc gia Gran Paradiso - Gran Paradiso có nghĩa là Đại Thiên Đường - nằm lọt thỏm bên trong rặng Graian Alps, giữa thung lũng Aosta và vùng Piedmont. Và nhà thờ San Besso, hay còn gọi là Chốn Thiêng liêng của thánh Bessus (đôi khi được gọi là Besse, tên tiếng Ý: San Besso), thuộc phần Piedmont của công viên, ở vị trí cao hơn 2.000m so với mặt nước biển. Nó được bao phủ bởi một tảng đá cao 60m, gọi là Kho báu của thánh Bessus, dù nhìn từ mặt trước, nhà thờ trông chẳng khác nào như cố chen vào chân của khối đá chênh vênh. Bản thân hòn đá này được mô tả như một cái móc sắc nhọn trồi lên giữa những quang cảnh đẹp đẽ và thanh bình của vùng núi non.
Nếu nhìn từ một góc độ khác, tảng đá khổng lồ dường như được đặt lên nhà thờ bên dưới, tạo nên một quang cảnh ấn tượng và khác thường. Theo truyền khẩu của dân địa phương, nhà thờ đã nằm bên dưới hòn đá từ nửa sau những năm 1600, khi nó được xây dựng để tôn kính thánh Bessus, vốn là một trong những người lính của quân đoàn Theban, tên khác là quân đoàn tử đạo của Agaunum. Dẫn đầu quân đoàn huyền thoại này là thánh Maurice. Thánh Bessus đã tử đạo vào thế kỷ thứ 4 và được tưởng nhớ như là thánh bổn mạng của thị trấn Ivrea thuộc vùng Piedmont. Tương truyền, thánh Bessus đã chạy đến chân hòn đá và qua đời ở đó, nên đối với người dân trong vùng, nơi đây còn là địa điểm hành hương thiêng liêng.
Ngoài dòng thánh Maurice, dòng tu thánh Bessus phổ biến hơn hẳn những dòng tu khác của các vị thánh thuộc quân đoàn Theban, và cho đến nay danh tiếng vẫn không suy giảm. Tuy nhiên, có một huyền thoại khác không được phổ biến về nhà thờ cũng như vị thánh này. Theo đó, Đức Bessus được mời đến một bữa tiệc thịnh soạn được chế biến từ thịt gia súc mà một số người trộm được. Khi phát hiện chân tướng, ông tố cáo bọn trộm gia súc, và bị bọn chúng truy đuổi đến rìa ngọn núi đá ở Monte Fautenio. Ông may mắn sống sót sau vụ này, nhưng lại không tránh khỏi sự truy sát của binh lính La Mã đang tìm diệt quân đoàn Theban. Thánh Bessus đã tử đạo sau đó.
Theo những lời truyền miệng, thánh tích của thánh Bessus đã bị đánh cắp vào thế kỷ IX và bị đưa đến một nhà nguyện ở Ozegna, nơi hiện nay xây tu viện Beata Vergine del Convento e del Bosco. Đến giai đoạn trị vì của vua Arduin nước Ý (955-1015), thánh tích được chuyển về Vương Cung Thánh Đường Ivrea, và được đặt bên trong một chiếc quách La Mã. Ngày nay, thánh tích được đặt bên cạnh những di vật của các vị thánh tử đạo khác.

Thánh Bessus được xem là đấng bảo hộ các binh sĩ trước những mối nguy hiểm trên chiến trường. Vào ngày 10.8 mỗi năm, lễ hội hành hương được tổ chức tại công viên quốc gia Gran Paradiso. Và tượng thánh sẽ được rước lên vách đá mà ngài từng bị sát hại vì đức tin. Niềm vinh dự thực hiện lễ rước thánh từng làm bùng nổ tranh cãi giữa hai thị trấn Cogne và Campiglia, do mỗi thị trấn thuộc về các địa phận khác nhau. May mắn là đến thế kỷ thứ 13, hai thị trấn này cùng trở thành một phần của giáo phận Ivrea.

 6) Tu viện La Verna, nơi thánh Francis (Phanxicô)nhận dấu thánh
Một trong những địa điểm có dấu ấn quan trọng đối với dòng Phanxicô là tu viện nhỏ nằm trên tảng đá khổng lồ, cách thành Assisi khoảng 11,2km về hướng bắc.

La Verna là một ngọn núi biệt lập với độ cao 1.283m, nằm ở trung tâm của dãy núi Tuscan Apennines, miền trung nước Ý. Nơi đây Thánh Phanxicô xứ Assisi đã nhận các dấu nhục hình của Chúa Giêsu vào ngày 14/9/1224. Tu viện La Verna đã được xây ở phần phía nam của ngọn núi tại độ cao 1.128m để tưởng nhớ sự kiện quan trọng này. Vào tháng 8.1921, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV thăng cấp nhà thờ tại đây thành Vương Cung Thánh Đường.
Theo sử liệu, ngày 8.5.1212, do quá sức ấn tượng trước những lời giảng của Thánh Phanxicô, Bá tước Orlando xứ Chiusi della Verna đã trao tặng La Verna cho ngài làm nơi tu trì và suy niệm. Nơi đây được thánh nhân cùng các môn đệ vô cùng yêu thích và thường xuyên lui tới nhiều lần. Đến năm 1218, Thánh Phanxicô cho xây một nhà nguyện nhỏ, đặt tên là Đức Bà của các Thiên Thần (Santa Maria degli Angeli), nhằm thể hiện linh ảnh mà chính ngài đã nhìn thấy. Trong linh ảnh đó, Đức Mẹ Maria đã chỉ dẫn nơi xây nhà nguyện và cách xây như thế nào.

Đến tháng 8.1224, lo lắng trước một số thay đổi trong Dòng Anh Em Hèn Mọn do ngài sáng lập, Thánh Phanxicô đã quay về nơi này để cầu nguyện và ăn chay suốt 40 ngày, chuẩn bị cho lễ thánh Micae. Trong lúc cầu nguyện tại sườn núi, vào ngày 19.4, ngài nhận được dấu thánh như những vết thương Chúa Giêsu phải chịu trên thập giá.
Tại nơi ngài từng nhìn thấy một khải tượng đặc biệt, người đời sau đã cho xây dựng Nhà nguyện Dấu Thánh. Chỉ hai năm sau kể từ khi nhận dấu thánh, Thánh Phanxicô từ trần. Đức Giáo Hoàng Alexander IV quyết định bảo hộ La Verna và vào năm 1260, một nhà thờ được xây lên tại nơi này. Nhiều người, trong đó có Thánh Bonaventure và các giám mục đã tham dự lễ thánh hóa nhà thờ.
Một thời gian sau, Bá tước xứ Battifolle cho xây Nhà nguyện Dấu Thánh, gần nơi đã diễn ra phép lạ. Đến năm 1348, nhà thờ chính của tu viện bắt đầu được khởi công, nhưng phải đợi đến năm 1459 mới hoàn thành. Từ nhà thờ chính, các tu sĩ dòng Phanxicô cử hành đám rước 2 lần/ngày, vào 14 giờ và 0 giờ đêm, đến Nhà nguyện Dấu Thánh.

Tu viện đã bị phá hủy một phần do hỏa hoạn trong thế kỷ 15 và sau đó được trùng tu. Công việc xây dựng lại tu viện được thực hiện trong 3 thế kỷ. Đến năm 1810 và 1866, các tu sĩ bị trục xuất tạm thời khỏi nơi này. Dù họ đã quay lại mảnh đất linh thiêng, hiện La Verna thuộc quản lý của thành phố Florence.

 7) Tu viện hang động ở Marche
Tương truyền, một nhà thờ đá đã được xây dựng tại nơi do chính vị thánh bổn mạng của thành phố Ascoli Piceno - miền trung Ý - chọn làm nơi yên nghỉ cuối cùng, sau khi bị quân La Mã hành hình.
Nằm ở vùng Marche thuộc miền Trung nước Ý, nhà thờ Hang Động Thánh Emygdius (Emidius) được xem là một trong những kiến trúc quan trọng nhất của thành phố Ascoli Piceno, đại diện cho một nguyên mẫu vô cùng giá trị của nghệ thuật tôn giáo theo kiến trúc Baroque từ thế kỷ 17 tại xứ Marche. Sở dĩ có từ “hang động” trong tên của nhà thờ là do phần nội thất được xây dựng bên trong một hang động tự nhiên. Khác với nhà thờ chính cũng được đặt tên theo vị thánh là Vương Cung Thánh Đường Emygdius ở thành phố Ascoli Piceno, nhà thờ bằng đá nằm ở vị trí hẻo lánh và yên bình, nổi tiếng với các hang động tự nhiên.
Thánh Emygdius (279-309) đã được Đức Giáo Hoàng Marcellus I tấn phong giám mục. Ngài là giám mục tiên khởi của thành Ascoli Piceno. Trước khi được tấn phong, ngài nổi tiếng với khả năng chữa nhiều loại bệnh khó trị, được dân thành Rome đặt biệt danh là con trai của thần Apollo. Trên đường đến giáo phận Ascoli, Emydgius đã thực hiện phép lạ bằng cách gõ vào một vách đá khiến nước phun trào. Tổng trấn Ascoli Piceno là Polymius đã tìm cách thuyết phục vị tân giám mục cải đạo sang thờ phụng thần Zeus, thậm chí còn đề nghị gả con gái ruột là Polisia cho Emygdius. Thế nhưng Emygdius đã rửa tội cho Polisia cùng với nhiều người khác. Nổi cơn thịnh nộ, Polymius đã chặt đầu vị giám mục và các môn đệ vào ngày 5/8/309.

Sau khi bị rơi đầu, Emygdius đứng dậy, mang theo thủ cấp của chính mình đi qua một quãng đường dài đến nơi ngài từng xây dựng một nhà nguyện nhỏ, cũng là nơi nhiều người đặt hầm mộ tại đây. Tuy nhiên, phải mất vài trăm năm sau, tiểu sử của vị thánh mới được ghi lại và gìn giữ trong các nhà thờ địa phương. Đến năm 1000, một tu sĩ đã diễn dịch lại nội dung chữ viết tại hầm mộ trong hang đá, nơi tìm thấy thánh tích của vị thánh. Vào năm 1703, một trận động đất khủng khiếp làm rung chuyển cả vùng Marche nhưng không gây ảnh hưởng đến thành phố Ascoli Piceno. Thế là các giáo dân tin rằng, chính thánh Emygdius đã bảo vệ cả thành phố, nên quyết định tôn kính ngài là thánh bổn mạng của Ascoli Piceno. Đến năm 1721, dưới sự quản lý của Đức Giám mục Giovanni Gambi, cộng sự thân tín của Đức Giáo Hoàng Clement XI, nhà thờ Hang Động Thánh Emygdius đã được xây dựng tại địa điểm vị thánh từng chọn làm nơi yên nghỉ cho mình.

Tổng cộng khuôn viên nhà thờ được đặt nằm gọn trong khu hang động từng là nơi mai táng vị thánh, nằm trên sườn dốc của cao nguyên Parignano ở phía bắc thành phố. Phần không gian bên dưới nhà thờ được giữ nguyên cho đến ngày nay, cho thấy những vết tích đào bới thành từng ngăn, nơi trước đây đã chứa di hài của thánh Emygdius và các môn đệ. Bên trong nhà thờ chỉ có một bệ thờ duy nhất, và hiện vẫn còn đặt bức tượng của vị thánh khắc từ đá travertine, được ký tên bởi nhà điêu khắc kiêm kiến trúc sư Giuseppe Giosafatti (1643-1733).

8) Nhà thờ thánh Peter 

Náu mình bên bờ biển miền tây bắc của Ý, Portovenere là thị trấn có lịch sử từ giữa thế kỷ thứ nhất. Thành phố cổ tuyệt đẹp luôn được xem là kho báu chưa bao giờ được khám phá hết đối với du khách trong nước lẫn nước ngoài. Tại nơi từng được phản ảnh qua những áng văn chương và thơ ca bất hủ của các đời nghệ sĩ nổi tiếng như George Sand, David Herbert Lawrence, Percy Bysshe Shelley, nhà thờ thánh Phêrô từ nhiều thế kỷ qua vẫn nằm sừng sững ở đó, trở thành cảnh tượng đầu tiên lọt vào tầm mắt những du khách đến Portovenere từ đường biển. Với kiến trúc đơn giản nhưng độc đáo, nhà thờ được xây dựng bên trên một ngọn đồi đá nhô khỏi Vịnh Thi nhân, nơi chốn thiên đàng của những tên tuổi trong làng văn chương và thi ca của châu Âu.
Cái tên Portovenere được đặt theo tên Venus, thần Vệ nữ, nhờ vào vẻ đẹp mà thiên nhiên trao tặng cho thị trấn cổ. Vào thế kỷ thứ hai, nhằm vinh danh và tạ ơn nữ thần, lính La Mã đóng tại Portovenere và các ngư dân trong vùng quyết định xây dựng đền thờ ở rìa mũi đá của thị trấn, với hy vọng có thể bảo vệ nơi này trước cơn thịnh nộ của biển cả, bão tố. Đến thế kỷ thứ 5, một nhà thờ Kitô giáo cổ được dựng lên theo dạng hình chữ nhật và hậu điện hình bán nguyệt. Sau nhiều thăng trầm và thay đổi của thời đại, đến thế kỷ 12, những người Genoa đã đến đây, xây dựng lại đền thờ và biến nó thành một nhà thờ để tôn kính thánh tông đồ Phêrô, với mong muốn vị thánh sẽ luôn bảo vệ Portovenere trước những điều xấu như thiên tai, nhân họa...

Mỗi năm, vào ngày 17.8, dân địa phương ăn mừng lễ White Madonna, kính Đức Mẹ bằng cách thắp sáng đường đi lên ngọn đồi với hàng ngàn cây đuốc sáng cả một vùng, bao gồm cả nhà thờ đá thánh Phêrô. Một cảnh tượng độc nhất vô nhị của vùng biển được Thiên Chúa ưu ái.


9) Hang thiêng Sacro Speco

Tu viện thánh Biển Đức ở Subiaco thuộc Lazio là cấu trúc bao quanh hang động từng che chở vị thánh trong thời gian làm ẩn sĩ trước khi ngài thành lập dòng.
Nằm lọt thỏm trong cảnh tượng thiên nhiên tuyệt đẹp ở miền trung nước Ý, tu viện thánh Biển Đức là một trong những tu viện nổi tiếng và đẹp nhất trên thế giới. Điểm đặc biệt nhất của nơi này chính là hang “Sacro Speco”, nơi thánh Biển Đức (480 - 547) ẩn cư trong suốt 3 năm, chỉ ăn thực phẩm đặt trong cái giỏ được một ẩn sĩ tên Romanus chuyển xuống. Kể từ đây, ngài và người chị song sinh Santa Scholastica đã lập 12 cộng đoàn đan sĩ trong khu vực, trước khi rời khỏi nơi này và chuyển xuống vùng Montecassino để tiếp tục hoạt động truyền giáo. Tu viện thánh Biển Đức còn nổi tiếng với những bức bích họa xuất sắc từ thời Trung cổ. Trong số này có cả chân dung của thánh Phanxicô thành Assisi được vẽ khi thánh nhân còn sống.
Thánh Biển Đức chào đời tại Norcia vào năm 480. Ngài lên Rome nhập học nhưng nhanh chóng rời khỏi cảnh phồn hoa vì quá sức kinh hãi trước lối sống vô đạo đức tại đây. Thánh nhân cảm thấy mình thích hợp hơn với cuộc sống ẩn dật, và quyết định ẩn mình tại núi Taleo gần Subiaco, nơi ngài gặp được một ẩn sĩ tên Romanus. Lúc đó, Subiaco đã có một tu viện, nhưng thánh Biển Đức muốn sống một mình trong hang không người lui tới, ăn qua bữa nhờ vào sự tiếp tế của ông Romanus, trải qua những thời khắc chống chọi với lòng ham muốn và sự thèm khát với đời sống thế tục.
Sau một thời gian, một số người trong vùng nghe tin về vị ẩn sĩ trong hang, tìm đến và mời thánh Biển Đức làm bề trên của tu viện Vicovaro gần đó. Tuy nhiên, các tu sĩ ở tu viện này nhanh chóng không hài lòng với luật lệ nghiêm ngặt do ngài ấn định và tìm cách hãm hại. Thế là thánh Biển Đức quay về hang của mình, nhưng tiếng tăm của vị ẩn sĩ đã thu hút một khối lượng lớn tín hữu đến tận nơi, khiến ngài vô phương tiếp tục theo đuổi đời sống cô độc. Thánh nhân quyết định thành lập cộng đồng đầu tiên nhân danh thánh Clement thành Rome, và sống ở đấy 20 năm. Trong thời gian này, ngài thành lập thêm nhiều đan viện và soạn thảo bộ quy tắc nổi tiếng mà sau đó trở thành tiêu chuẩn của nếp sống đan tu Tây phương.
Vào năm 529, thánh Biển Đức rời Subiaco đến Montecassino và cải đạo cho cộng đồng ngoại đạo tại đây, cũng như xây dựng tu viện Montecassino nổi tiếng. Tại đó, ngài hoàn tất phiên bản cuối cùng của “Quy luật Thánh Biển Đức” và qua đời vào ngày 21.3.547. Các tu viện ở vùng Subiaco tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ sau đó.

Được xây dựng trên một tảng đá lớn màu nâu, tu viện thánh Biển Đức nằm cheo leo trên vách đá của một ngọn núi, xung quanh là rừng bao phủ. Những phần cổ nhất của tu viện được nằm ở các tầng thấp nhất của cấu trúc. Cổng vào, được trang trí bằng cây Thánh giá từ thế kỷ 13, dẫn đến một lối đi nhỏ hẹp nằm giữa vách đá dựng đứng và bức tường đá. Ở cuối lối đi là một cánh cổng khác, được khắc hàng chữ Latinh “Sit pax intranti, sit gratia digna precanti. Laurentius cum Jacobo filio suo fecit hoc opus”. Bên trên cánh cổng là bức họa “Đức Mẹ Maria và Chúa Hài Đồng” có niên đại từ thế kỷ 15. Một căn phòng khác có bức bích họa “Bốn vị thánh sử, Đức Mẹ Đồng Trinh và Hài Nhi”. Rải rác khắp tu viện, được chia làm hai phần là khu trên và khu dưới còn nhiều tác phẩm hội họa tuyệt vời khác thuộc về nhiều trường phái.
Nhà nguyện nằm ở bên trái khu dưới là nơi chứa địa điểm linh thiêng nhất của cả tu viện - Hang thiêng (Sacro Speco) của thánh Biển Đức. 12 ngọn đèn được treo bên trên hang, đại diện cho 12 cộng đoàn đan sĩ được ngài thành lập ở Subiaco. Tại đây có đặt một bệ thờ từ thế kỷ 13 và bức tượng cẩm thạch của vị thánh do Antonio Raggi điêu khắc vào năm 1657. Bên ngoài nhà nguyện hang động là nhà nguyện thánh Gregory, nơi chứa những bích họa cổ nhất trong cả tu viện, có niên đại từ đầu thế kỷ 13.
Hang thiêng (Sacro Speco) không nằm trong danh sách đan viện được thánh Biển Đức lập, nhưng đã trở thành địa điểm hành hương nổi tiếng của Ý. Một số cấu trúc đã được xây dựng xung quanh hang vào thế kỷ thứ 10 và 11, nhưng chỉ còn lại một số tàn tích tồn tại đến ngày nay.

10) Tu viện Santa Maria dell'Isola
Nằm chênh vênh trên mũi đá, nhô lên khỏi bờ biển đẹp hút hồn của Tyrrhenus, là Santa Maria dell’Isola, tu viện có niên đại từ thế kỷ thứ 4, gắn liền với lòng tôn kính Đức Mẹ Maria.
Được mở cửa trở lại vào năm 2014 sau 9 năm sửa chữa, tu viện Santa Maria dell’Isola là biểu tượng của Tropea. Đây là một thị trấn có lịch sử lâu đời, nằm ở vị trí đắc địa trên bờ biển Tyrrhenus, nơi có quang cảnh như mơ và được vinh danh là “Bờ biển của các vị thần”. Theo truyền thuyết, thị trấn này đã được chính anh hùng Hercules phát hiện, và con người bắt đầu định cư ở Tropea ít nhất 2.000 năm trước, kể từ thời Sextus Pompey đánh bại hạm đội của Hoàng đế La Mã Octavius.
Santa Maria dell’Isola được xây dựng từ thuở xa xưa, lâu đến nỗi địa thế của bờ biển khi đó hoàn toàn khác với ngày nay. Vào những ngày đầu tiên, tu viện nằm lẻ loi trên một hòn đảo nhỏ cách xa bờ, biến nơi đây thành địa điểm sống đời tu lý tưởng của các ẩn sĩ muốn rời bỏ cuộc sống náo nhiệt. Tuy nhiên, theo thời gian vật đổi sao dời, đất cát thi nhau bồi đắp ở vùng nước nằm giữa hòn đảo nhỏ và đất liền. Biển cũng rút đi bớt, để lộ ra phần đất nối liền hòn đảo ấn tượng với bờ biển. Thêm vào đó, người đời sau trong lúc tu bổ đã kiên nhẫn khoét đá, khắc nên dãy bậc thang uốn lượn lên tận đỉnh, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho những người hành hương đến được nơi linh thiêng, bất chấp những thay đổi của vùng biển xung quanh.
Bản thân tu viện cũng trải qua không ít thăng trầm, với những dòng đời nối tiếp. Từ một cấu trúc đơn giản dành cho kinh nguyện vào thời Trung cổ, nó hoàn toàn được lột xác trong giai đoạn Phục hưng (từ thế kỷ 14-16). Đến năm 1905, một trận động đất đã phá hủy mặt tiền tu viện, buộc nơi này phải trải qua một đợt trùng tu mới.Bên cạnh địa thế đặc thù, chính những câu chuyện về Đức Mẹ Maria đã tạo nên sự thiêng liêng cho tu viện, biến nó trở thành địa điểm thu hút các dòng người hành hương qua nhiều thế kỷ. Tương truyền, một bức tượng gỗ của Đức Nữ Đồng Trinh, bằng cách nào đó, đã dạt vào bờ biển từ hướng đông, và sự kiện này diễn ra trong giai đoạn bài trừ thánh tượng dưới thời đế quốc Byzantine trong thế kỷ thứ 8 và thứ 9. Người thời đó cho rằng đây là một phép lạ, vì dường như bức tượng đã thoát khỏi những bàn tay phá hủy của những kẻ ngoại đạo.
Khi câu chuyện được truyền đi, nhiều người bắt đầu đổ xô đến Tropea, với hy vọng có thể thưởng lãm bức tượng nổi tiếng. Và ai nấy đều tin rằng bức tượng mang theo quyền năng giúp bảo vệ vùng đất khỏi thiên tai, địch họa. Vào đầu năm 1638, Đức Mẹ Maria đã hiện ra với Đức Giám mục Calabria, cảnh báo ngài về nguy cơ động đất. Vào ngày 27.3.1638, ngài tập trung cư dân ở Tropea và dẫn họ đi khỏi thị trấn. Cùng ngày, động đất xuất hiện nhưng mọi người vẫn an toàn nhờ đã di tản kịp thời. Tuy nhiên, chẳng biết vì lý do gì, bức tượng gỗ huyền thoại đã biến mất khỏi tu viện và đến nay không rõ tung tích. Giờ chỉ còn lại tu viện đứng sừng sững trên “Bờ biển của các vị thần”, trở thành biểu tượng không thể thay thế của Tropea.

(sưu tầm từ website Công Giáo)