Tuesday, February 14, 2023

Xin Một Đóa Hồng Nhân Ngày Hạnh Phúc Lứa Đôi (Valentine's Day) - Mường Giang




Giọng đọc: Thanh Bình & Nguyễn Đình Khánh

Tình yêu là cái quái gì mà nhân loại xưa nay, từ các bậc đế vương, phi tần, quan quyền cao sang quý phái, cho tới những anh hùng liệt nữ ngất ngưởng hiên ngang và ngay cả hàng thứ dân bình thường..hầu như ai cũng bị tiếng sét con tim, làm cho lận đận lao đao, dở sống dở chết, thân bại danh liệt, khi đã lở vướng lụy vào lưới tình. Bao nhiêu bi kịch não lòng, buồn rầu tới độ phải chảy máu mắt đêm ngày, cũng chỉ vì yêu, ghen, thương, hận. Nói chung không ai có thể ngăn nổi 'tình yêu trai gái', khi họ đã quyết lòng gắn bó keo sơn, mặc kệ 'ngày mai sẽ ra sao' khi đã đam mê vướng lụy vào lưới tình. Do trên mới có câu 'khi đã yêu rồi, trời gầm cũng không nhả' là vậy đó.

Nên đã có không biết bao nhiêu trang sử tình bi thiết cổ kim, làm đau lòng hâu thế, như chuyện của Juliet-Roméo, Cléopatra-Antone, Dương Quý Phi-An lôc Sơn, Trương Chi-Mỵ Nương, Mỹ Châu-Trọng Thủy, Trần Huyền Trân-Khắc Chung và ngàn muôn câu chuyện diễm tình khác, cũng không kém thuơng đau máu lệ.

Như vậy tình yêu là gì" đố ai trả lời được, dù ai cũng đã ít nhất một lần là người trong cuộc. Đã có nhiều người bảo: Đó là thứ thần dược, chữa trị được nhiều thứ bệnh. Là mầm bệnh yếu đuối, do trái tim gây ra, là sự khôn ngoan của kẻ khờ, là mù quáng, là thuốc phiện cũng như vị ngọt của trái cấm trong vườn địa đàng. Nhiều người đã chịu khó góp nhặt những tình huống, kinh nghiệm trong tình sử, rồi phân hạng thành sáu loại tình yêu:
  1. Tình yêu của "chàng-nàng" hay "Eros", một kiểu tình lãng mạn.
  2. "Leudus", chỉ thứ tình đổi thay như ta thay quần áo hằng ngày.
  3. "Storge" là thứ tình yêu chân thật, phát xuất từ mối tình thơ theo kiểu "nhà nàng ở cạnh nhà tôi" hay đã nhun nhén tình cảm lúc còn học chung dưới một mái trường.
  4. "Mania" là loại tình yêu cuồng mê si dại, vì thế một trong hai khi quá đam mê, có thể giết người như Orhello đối với Deodemona.
  5. "Pragma" kiểu tình yêu môn đăng hộ đối.
  6. "Agape" kiểu tình yêu cao thượng của các bậc anh hùng-anh thư, vì kẻ khác mà quên tình mình.
Buổi trước các khoa học gia đã lẩn trốn sự phân tích tình yêu, vì cho rằng nó thuộc phạm trù của những văn nghệ sỹ, vốn là thành phần rất ướt át, ủy mị, thích thương mây khóc gió, nên hay lo chuyện nhân thế tàng tàng, một trái ngược với bản chất khô cằn của các nhà khoa học. Nhưng giờ này, con người đã phải nương tựa vào nhau mà sinh tồn, nên không còn phải chia vùng, phân biện các bộ môn y tế, xã hội, nhân chủng học..

Tất cả không nhiều thì ít, đều có liên hệ tới chuyện yêu đưong trai gái.. vì vậy thành kiến ngoại cuộc trên, đã bị đánh đổ. Do trên hiện có rất nhiều khoa học gia, trong số này có những nữ bác học, đã khai quật được từ trong sâu thẳm của nấm mộ thơi gian, nhiều bí mật lạ lùng về tình cảm con người về nụ hôn, tình dục, sửa sang sắc đẹp..mục đích cũng vẫn là để giữ gìn lứa đôi hạnh phúc.

Năm 1997, nhân ngày VALENTIME'S DAY, các khoa học gia Hoa Kỳ trong tổ chức "American Association for the Advancement of Science "đã nhóm họp tại thành phố Seatle, tiểu bang Washington, để tuyên bố: "Tình yêu lãng mạn của nhân sinh kim-cổ, động-tây, chẳng qua chỉ là những chuỗi phản ứng hóa học mà thôi".

Đúng hay sai chỉ có trời biết, trong khi nhân loại cứ vẫn đút đầu vào cái thòng lọng của thần tình ái, để chịu khổ, chịu chết vì tình yêu:
'..gió hiu hắt mà hồn đơn cũng lạnh
mưa phất phơ sao vẫn buốt thịt da
môi chưa chạm, tình đã vội chia xa
tay chực nắm, người cay chua từ chối..'

1- VÌ CHÀNG THIẾP PHẢI TÔ HỒNG, CHUỐC LỤC:

Muôn đời sắc đẹp của người phụ nữ, cũng vẫn là chìa khóa để nắm bắt tình yêu, mở đường cho hôn nhân và duy trì lứa đôi hạnh phúc. Thực tế không có gã đan ông khùng điên nào, lại chọn cho mình người yêu, người vợ cỡ cô bé lọ lem, Thị Nở hay bà chằng Chung Vô Diệm. Nên những câu chuyện tình lý tưởng, chỉ có trong tiểu thuyết hoặc họa hoằn lắm mới có trong đời thường.

Do quan niệm trên, để kiếm cho mình một tấm chồng xứng đáng hầu nở mày nở mặt với thiên hạ. Nên người con gái nào khi đến tuổi cặp kê, cũng đều biết tự lam đẹp. Bởi vậy khoa thẩm mỹ học đã ra đời từ khuya, chứ không mới mẻ gì. Ngày nay con người chỉ phát minh thêm, kỹ thuật xóa vết nhăn, trồng tóc, hút mỡ, độn ngực và cấy, ghép da, mỡ, các bộ phận trong thế kỷ XX. Tất cả chỉ là sự tiếp nối những công trình làm đẹp phái nữ tự ngàn xưa, của các thầy thuốc cổ Ai Cập, Hy Lạp, Âu Châu vào thời phục hưng.

Nhờ các công trình khảo cổ, ta mới biết con người đã tự làm dáng vào năm 3000 trước tây lịch (TrTL) tại Ai Cập nhưng chỉ thu hẹp trong chốn cung đình, với các thành phần vua chúa, hoàng hậu, phi tần và triều thần. Theo tài liệu cho biết, bộ phận đầu tiên được sữa, đó là chiếc mũi trên khuôn mặt. Vào thế kỷ XIX, một khoa học gia Mỹ tên Edwin Smith, đã phát hiện được một cuộn giấy, gọi là Papyrus dài 5m, trên đó có vẽ hình một chiếc mũi vẹo, được giải phẫu và phục hồi, bởi một thầy thuốc kiêm kiến trúc sư tên Imhotep. Chính ông đã giúp vua Ai Cập Zoser, xây kim tự tháp lừng danh Saqqarab và là người thầy thuốc đầu tiên, nghĩ ra cách lấy những cục huyết đọng trong mũi, khi giải phẫu. Nhưng chính vị thầy thuốc ngưòi Ấn Độ tên Sushruta, sống trong thế kỷ VII trước TL, mới là cha đẻ của ngành Thẩm Mỹ Học và Khoa Giải Phẫu Tạo Hình. Tại Ấn Độ thời đó, ông là vị thầy thuốc duy nhất, phục hồi Mũi lại cho các phụ nữ bị xẽo, vì mang tội ngoại tình.

Riêng về bộ ngực, thì do thầy thuốc người Hy Lạp là Paul D.Eginee, sống vào khoảng thế kỷ thứ VI sau TL, chuyên sửa lại các bộ ngực quá to của nam giới. Riêng phụ nữ, phải đợi tới năm 1897, thầy thuốc tên Michel Pouson, là người đầu tiên làm đẹp bộ ngực nữ phái. Trong thời phục hưng, đã có nhiều thầy thuốc tuy xuất thân từ giới giang hồ lãng tử như Ambroise Paré (thợ hớt tóc), Pièrre Franco (bán thuốc dạo), nhưng lại là những kẻ tiền phong, mở đường cho khoa giải phẫu thẩm mỹ, trong việc chữa trị các vết bỏng trên làn da, đồng thời kiêm nghề vá môi, mắt.

Tại phương đông, người Trung Hoa là dân tộc đầu tiên đã biết tới thuật mỹ dung. Thời Xuân-Thu Chiến-Quốc vào khoảng thế kỷ 6-5 trước TL, người phụ nữ đã biết trang điểm bằng phấn sáp. Bộ sách 'Thần Nông Bản Thảo Kinh' xuất hiện đời Tần-Hán, phổ biến các dược thảo như 'Bạch chỉ' để giữ da, 'Bạch cương' trừ tàn nhang. Riêng các loại dược chất 'Can tùy hương, Bạch đàn, Bạch truật, Thanh mộc hương'.. có tác dụng giữ làn da mặt phụ nữ, luôn luôn trắng trẻo xinh đẹp. Ngoài ra còn nhiều bộ sách quý khác như Cát Hồng Thần Dược (đời Tấn), Bí Cấp Thiên-Kim Yến-Phượng (đời Đường), Thái Bình Thánh Huệ Thời Trần (đời Minh)..chứa một nội dung phong phú, nhằm hướng dẫn phụ nữ, cách giữ gìn và kéo dài nét đẹp của mình, bất luận tuổi tác, thời gian.

Về phương pháp kẽ lông mày, bới tóc, tô mắt môi..người phụ nữ Tàu, cũng đã biết từ thời Hậu Hán. Thuở đó, người phụ nữ đất Trường An, có khuynh hướng vẽ nửa vòng mắt dưới chỗ lệ rơi, gọi là 'Đề Trang'. Đồng thời lại tô thêm một lớp phấn sáp mỏng dưới con mắt. Đây là lối trang điểm kiểu 'mày buồn diểm lệ', rất được ưa thích, nên đã có bài phong dao ca tụng: br /> 'Thành trung hảo cao kế
Tứ phương cao nhất xích
Thành trung hảo quang mi
Tứ phương thẻ bán ngạch'

Có nghĩa là, búi tóc của người Trường An mới hơi cao một chút, thì cả nước đã nâng cao lên cả thước (đơn vị đo đạc cổ của Tàu). Còn lông mày của người Trường An vừa nới rộng, thì cả nước đã vẽ dài ra tới nửa trán. Ý tứ của bài phong dao trên, phần nào cho ta hiểu cách làm đẹp của người phụ nữ buổi đó. Đời Đường, Chu Khánh Dư đã viết một bài thơ nổi tiếng, ca tụng nghệ thuật tô vẽ lông mày của 'chàng-nàng' trong chốn phòng the:
'Động phòng tác dạ, đình hồng chúc
Đái hiến đường tiền bái cữu cô
Trang bài đề thanh văn phu tế
Họa my thâm thiểm, nhập thời vô..'

Bài thơ có nghĩa là, đêm động phòng hoa chúc, sáng dậy trang điểm để ra hầu cha mẹ chồng, nàng hỏi chàng 'em kẻ lông mày như thế này có được không"'

Cũng từ các tài liệu cổ còn sót lại, cho biết người phụ nữ Trung Hoa thời xưa đã biết chế tạo 'phấn xoa mặt' bằng gạo. Ngoài ra còn biết xỏ lỗ tai để đeo các đồ trang sức làm bằng vàng ngọc hay búi tóc giả. Độc đáo nhất là 'Lạc Mai Trang Sức', một nghệ thuật cắt lụa ngũ sắc, lá cây hay giấy màu, làm thành những cánh hoa mai để dán trên khuôn mặt. Song song người ta còn uống thêm các loại thuốc giữ sắc đẹp, gọi chung là 'Trà Mỹ Dung', đặc chế bằng hạt Hoàng Hoa, còn gọi là 'Đồng Tích Lợi'. Riêng Từ Hy Thái Hậu đời nhà Thanh, có một thang mật, được ghi trong Tuyển tập Từ Hy. Nhờ dược liệu này, mà khuôn mặt của bà hoàng luôn luôn tươi mát, như đang độ thanh xuân.

Nhưng độc đáo hơn hết trong nghệ thuật làm đẹp của người đàn bà Trung Hoa thời xưa, là ' Tục Bó Chân'. Tục này đã kéo dài từ thời thương cổ cho tới năm đầu của Dân quốc 1911 mới chấm dứt trên giấy tờ. Về xuất xứ của tục bó chân, hiện có rất nhiều giả thuyết như thuyết cho rằng bó chân do Hồ Hỷ Mị, bạn của Đắc Kỷ nghĩ ra đầu tiên. Vì cả hai đều là phi tần được Trụ Vương đời Thương sủng ái nhưng lại xuất thân từ thú cầm: Đắc Kỷ gốc chồn, còn Hỷ Mị là hạc, vì muốn dấu đôi chân thú nên phải bó kín lại. Thuyết khác cho rằng bó chân có từ thời Triệu Phi Yến, cung phi của vua Hán Thành Đế. Nhưng dù có nguồn gốc từ đâu chăng nửa, đối với quan niệm thẩm mỹ xưa của người Trung Hoa, đều thừa nhận rằng, bất cứ người con gái nào, càng có bàn chân mềm nhỏ, thì càng đi đứng uyển chuyển trang đài, gợi tình quý phái, khiến cho ai thấy cũng đem lòng ái mộ. Những thành ngữ "tam thốn Kim Liên' hay mỹ danh 'Kim Liên', được rút ra từ điển tích thời Nam-Bắc triều (907-960), kể chuyện hôn quân Tiền Bảo Quyền, vì đam mê đắm đuối gót chân nhỏ của nàng Phan Giáng Phi, nên ra lệnh tịch thu hết vàng bạc của dân chúng trong nước, rồi đem đúc thành những đoá hoa sen lót trên thảm, cho người đẹp bước đi. Đời sau gọi đó là bộ 'Sinh Liên Hoa' có nghĩa là gót sen nở rộ. Có lẽ căn cứ vào điển tích trên, nên nhà văn Lâm ngữ Đường, cho rằng tục bó chân phát xuất từ thời Nam-Bắc Triều. Về sau các nhà khoa học tây phương khi nghiên cứu về tục bó chân của cổ Trung Hoa, cho rằng tục này có liên hệ tới vấn đề tình dục.

Quan điểm này cũng rất phù hợp với nhận xét của Lý Lạp Ông thuở trước. Theo ông, dụng ý của đôi bàn chân nhỏ, chỉ là để được cưng chiều ban ngày, ve vuốt ban đêm, mà điển hình là nhân vật Phan Kim Liên trong Thủy Hử truyện, chỉ vì có đôi bàn chân nhỏ đẹp, nên đã khiến cho gả Tây Môn Khách phải đắm đuối chết người. Trong tác phẩm 'Hương Liên Phẩm Tảo', tác giả có nói tới phong trào nam giới thời Minh-Thanh, rất say mê gót sen của những ả ca kỹ, đến độ nhiều người đã dùng chiếc hài của người đẹp để uống rượu, gọi là 'Kim Liên Bôi'. Sự say mê thích thú đó, tạo nên quan niệm cho rằng, đôi bàn chân của phụ nữ, mới chính là nơi gợi tình nhất của phái đẹp.

Tuy nhiên muốn có một đôi bàn chân xinh xắn lý tưởng, người con gái Trung Hoa phải sống trong địa ngục trần gian, vì tự mình hành hạ thân xác mình, trong ba năm dài, khi vừa mới lên 3-4 tuổi. Tục bó chân gồm có 4 giai đoạn như Thí triển, Thí khẩu, Khẩu triển và Lý loan. Tóm lại dù thuộc giai đoạn nào chăng nữa, thì người con gái trong thời gian bó chân, cũng đều chịu nỗi đau đớn tột cùng, mà không bút mực nào diễn tả cho hết được. Cũng vì đôi bàn chân phải bó thường xuyên, làm mồ hôi ứ đọng bên trong, tạo nên mùi hôi thúi không chịu được (xú như lý cước hổ). Do trên các người đẹp bó chân ngày xưa, luôn dùng một loại phấn có tên 'Hương Liên Táo' cho vào giầy, để gót sen luôn luôn thơm tho quyến rũ.

Vào thế kỷ XIX tại Châu Âu, xuất hiện phong trào phụ nữ làm đẹp với châm ngôn 'MÃNH MAI, CHÂN DÀI và CHIẾC LƯNG ONG' Do đó các cô các bà, nhất là giới mệnh phụ phu nhân, quý tộc..đều tìm đủ mọi cách làm cho bụng nhỏ lại. Họ nhịn ăn, kiêng cử, tập thể dục và dùng một chiếc nịt, có tên 'Chiếc Thắt Lưng CORSET' bó chiếc bụng lại, để đạt được vòng eo lý tưởng lúc đó là Bốn Mươi Phân. Nhờ sự bó sát phần giữa, khiến cho ngực và mông, bị dồn nén tối đa làm tăng thêm nét hấp dẫn, khi vận chiếc váy phồng hay váy ngắn.

Cũng vì muốn đạt vòng eo, nên tự mình dồn ép quá mức, năm 1859 một mệnh phụ người Pháp, sau khi dự tiệc tùng, khiêu vũ liên tục trong 2 ngày đêm, bổng lăn đùng ra chết. Nguyên do lưng bị chiếc Corset bó chặt quá, làm gãy 3 chiếc xương sườn và chính những chiếc xương gãy này, đã đâm bể gan. Thảm kịch trên được báo chí cảnh cáo nhưng không ai muốn nghe và chiếc lưng ong của các mệnh phụ cứ nhởn nhơ xuất hiện, cho tới đầu thế kỷ XX, quan niệm thời trang thay đổi, nó mới chịu vứt vào quá khứ.

Thật ra chiếc lưng ong của phụ nữ đâu có gì là mới mẻ, vì nó đã xuất hiện tại Trung Hoa từ đời Sở trước tây lịch. Có vậy nên thi hào Đổ Phủ đời Đường đã viết 'Khiển Hoài ' để ca tụng những chiêc lưng ong nho nhỏ, thon thon nhưng vô cùng xinh đẹp: 'Lạc phách giang hồ, tái tửu hành - Sở yêu tiệm tế chưởng trung khinh' ý nói đeo đẳng giang hồ rượu nách lưng, trong tay ôm nhẹ gái lưng ong, Cũng theo tài liệu cũ, thời xưa đàn ông Đông phương, có quan niệm xem nhẹ bộ ngực phụ nữ, trái ngược với thời trang thẩm mỹ ngày nay. Cho nên chỉ thấy nói tới: Hồng diện, Đa dâm thủy, thanh mi, Hậu hộ mao, Tế yêu (lưng ong), Âm Huyệt đại và Trường Túc ( chân dài) mà thôi. Tóm lại hoàn toàn khác với ngày nay 'NAM TU, NỮ NHŨ '.

2-Ý NGHĨA CỦA NGÀY TÌNH YÊU:

Tháng 10-1996, GS Timotly Thylar, một chuyên viên về khảo cổ và nhân chủng học tại Đại Học Cambridge Anh Quốc, đã phát hành tác phẩm 'Tình Dục Thời Tiền Sử', từ khảo nghiệm của một xác ướp vừa tìm thấy tại vùng biên giới Áo-Ý, xác này sống cách đây khoảng 5000 năm. Qua tài liệu, tác giả đưa ra các chứng minh về sinh hoạt tình dục của người tiền sử. Theo đó, họ chẳng những biết được chuyện trai gái phòng the, mà còn nghĩ được nhiều phương cách làm thỏa mãn tình dục.

Quyển sách trên còn chứng minh người tình sử, đã biết phân biệt thế nào là Ái ân tình tự, Sự truyền giống, Sinh đẻ. Tất cả xảy ra trước, mở đường để cho các dân tộc Cổ Ai Cập, Hy Lạp, La Mã..biết sử dụng thuốc ngừa thai. Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn phát hiện được nhiều tài liệu cũng như hiện vật, cách đây mấy ngàn năm, họ đã biết sử dụng cây cỏ để làm chất kích dục, như cây mồ hôi có tác dụng trị bệnh thông thường của phụ nữ trước ngày có kinh, đồng thời còn là loại thuốc kích dục rất hiệu nghiệm.

Các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy nhiều tượng phụ nữ khỏa thân thời tiền sử, được nghệ nhân tạc rất linh động và khiêu gợi, nổi bậc ở phần bộ phận sinh dục. Tại Pháp, các nhà khoa học còn tìm được một cây gậy, hai đầu có tạc hình cơ quan sinh dục đàn ông, trong tư thế Dordongac, dài từ 10-18cm, mà Timothy cho rằng, đây là dụng cụ để các phụ nữ tiền sử tự thỏa mãn tình dục. Đây cũng là vật dụng mà các bộ lạc, dùng để phá trinh các thiếu nữ trong các cuộc tế lễ. Tại Varna-Bảo Gia Lợi, cũng tìm thấy một chiếc bao bằng vàng đã lũng đầu, nằm giữa hai đùi một bức tượng nam, mà các nhà khoa học cho rằng, đây chính là hình thức chiếc bao cao su ngừa thai thời nay, phù hợp với sinh hoạt của phụ nữ lúc đó, phải làm việc để sinh tồn, nên cần ngừa thai cai đẻ.

Trong ngày lễ Valentine's năm ngoái, lúc nam nữ trên thế giới đang tưng bừng ăn mừng vui chơi, để kỷ niệm cuộc tình của mình, thì các nhà khoa học Mỹ trong tổ chức 'American Association for the Advancement of science' lại tuyên bố rằng 'chuyện tình lảng mạn xưa nay cuả trai gái, chẳng là cái quái gì cả, vì đó chỉ là phản ứng hóa học của cơ thể, không hơn không kém'.

Lời tuyên bố trên đã làm các vị thức giả bất bình, vì với họ thì tình yêu là một biểu tượng thiêng liêng nhất của con người, mà chưa ai định nghĩa nổi. Đó là sự phát sinh nảy nở, do rung động của trái tim sâu thẳm, tạo nên các trạng thái yêu, ghen, hờn, hận và đam mê. Bởi vậy tình yêu làm sao có thể phát sinh từ ống nghiệm"

Rồi thì càng ngày càng có nhiều nhà khoa học nhập cuộc, đưa thêm các minh chứng làm nền tảng cho lời tuyên bố trên, như bác sỹ người Úc Tony Furmar khi cho rằng: 'trong tiềm thức của con người luôn luôn bị chỉ huy bởi một mệnh lệnh sinh học'. Xúc cảm và tình yêu cũng vậy, cả hai lĩnh vực này đều do não bộ và con tim phụ trách chung, qua sự luân lưu của hóa chất. Riêng kích thích tố 'Hormone' cũng là một vấn đề được đem ra bàn cãi và được tạp chí US New and World Report, dựa vào cuộc thử nghiệm chuột, để chứng minh tác dụng hửu hiệu của Hormone, mà khoa học gọi là 'Dược Chất Tình Yêu', khiến chuột cái và đực khắng khít hơn lúc bình thường.

Vì đây là sự phát hiện gây cấn nhất của thập niên cuối thế kỷ XX, nên càng ngày càng sôi nổi. Với tiến sĩ Helen Fisher của trường đại học New York, tác giả sách 'Giải Phẫu Tình Yêu', đã trưng ra các chất hóa học trong cơ thể con người, có tác dụng kích thích và gây mê nơi hai tâm hồn đang yêu thích. Đó là các chất Adrénaline, Dopamine, Norepine, Phrine và đặc biệt là chất Phelylethylamine, thường được viết tắt là PEA. Riêng tiến sĩ Marta Frid của Úc, thì diễn tả trạng thái hóa học của con người, bị tiếng sét ái tình, sẽ có các phản ứng như hai bàn tay bịn rịn mồ hôi, mặt mày đỏ hồng nóng hổi, hơi thở dồn dập đứt đoạn. Tất cả đều là phản ứng của cơ thể, khi trung khu thần kinh, tiết ra các chất kích thích tố tới hệ thần kinh.

Nhưng các hóa chất PEA cũng không tồn tại lâu dài trong cơ thể, giống như người bệnh quen thuốc. Đó là trường hợp của các cuộc tình chết yểu, khi một trong hai kẻ yêu nhau đã lạnh nhạt qua tác dụng của chất PEA. Ngoài ra não bộ thường xuyên sản xuất chất giảm đau Endrophine, có khả năng làm phai nhạt bớt sự nồng cháy của đam mê. Thật ra từ năm 1906, các bác sỹ đã tìm được hóa chất Oxytocin tạo nên sữa mẹ của loài có vú (người cũng như vật) và các kích thích tố sinh dục Testosterone, Oestrogen..Tuy nhiên cuối cùng khoa học cũng khựng điếng, không trả lời được, vì sao các hoá chất trên, chỉ có tác dụng gây nên cảm xúc, yêu thương và đam mê giữa người vói người được chọn làm ý trung nhân hay bạn đời. Trái lại không có tác dụng gì hết đối với những người ngoại cuộc"

Nhưng dù có tuyên bố gì gì chăng nửa, thì tình yêu vĩnh cửu vẫn là nguồn hạnh phúc nhất trần gian, đối với con người. Từ đó qua thời gian nhân loại đã phát sinh ra nhiều tập tục, mang đầy ý nghĩa của Ngày Tình Yêu, lưu truyền cho tới hôm nay:

** TUYÊN BỐ KẾT HÔN:
Tục này phát xuất từ thời Hoàng đế Charlemagne của Pháp (742-814). Lúc đó nước Pháp thường xảy ra các cuộc hôn nhân có tính cách loạn luân, do các người cùng huyết thống lấy lẫn nhau, làm băng hoại xã hội, khiến con cháu mang nhiều chứng bệnh di truyền. Để chấn chỉnh thuần phong mỹ tục, triều đình ra lệnh tất cả thần dân trong nước, phải 'Thông Báo Kết Hôn', thời hạn bảy ngày trước khi làm lễ cưới. Mỹ tục này tới nay vẫn được liên tục và chấp nhận.

Phát sinh từ đầu thế kỷ thứ V sau TL, trong xã hội của các dân tộc thuộc nhóm Anglo-Saxon. Thời đó, theo phong tục bó buộc chú rể tương lai, phải bẻ một vật gì để trao cho cô dâu một nửa và mình giữ phần còn lại. Năm 860 sau TL, Giáo Hoàng Nicolas đệ I, ban lệnh xuống các tín đồ Thiên Chúa Giáo, phải làm Nhẫn Đính Hôn bằng vàng, để tỏ sự tín nhiệm của chú rể tương lai, đối với nhà gái.

Về nguồn gốc của chiếc nhẫn cưới cũng rất phức tạp. Với người Goths, thì đó là biểu tượng để cô dâu bị bắt cóc, phải ràng buộc với người chồng. Riêng cổ Ai Cập vào khoảng năm 1800 trước TL, thì việc hai bên trao đổi nhẫn cưới, để biểu lộ sự vĩnh cửu của tình yêu, vì với họ, vòng tròn là hình ảnh bất phân ly không bao giờ chia cắt. Tại Ấn Độ, người ta đeo nhẫn cưới vào ngón tay cái trái, còn dân Hébreux lại thích đeo ở ngón trỏ. Tuy nhiên theo sử liệu, thì chính người Hy Lạp mới là tác giả của tục đeo nhẫn cưới vào ngón áp út được phổ biến cho tới ngày nay. Chính các bác sỹ cũng xác nhận rằng, ngón áp út có thể gọi là ngón tay ' tình yếu', vì tại đây có một tĩnh mạch thông tới tận trái tim. Riêng đạo Thiên Chúa thì giải thích việc đeo nhẫn cưới vào ngón tay áp út như sau: 'khi đeo nhẫn vào ngón tay cô dâu, đầu tiên chú rể chạm chiếc nhẫn vào ngón tay trỏ rồi niệm nhân danh Cha, kế tới là ngón giữa nhân danh Con và cuối cùng đeo nhẫn vào ngón áp út, khi niệm Thánh Thần và Amen.

**PHÙ RỄ:
Vào thế kỷ thứ I trước TL, các dân tộc Goths (tổ tiên người Đức), có tục lấy vợ cùng làng, nên đã xảy ra nhiều trường hợp ngang trái vì không vừa bụng. Do trên nhiều ngươi đã phải bắt cóc các cô gái khác làng để đem về làm vợ. Phong tục này phải nhờ một người bạn giúp đỡ, gọi là phù rễ. Buổi đó, người phù rể vừa là đại diện của đàng trai cũng như người bảo vệ chú rể chống lại các hành động của bên vợ. Ngày nay, người rễ phụ có nhiệm vụ giữ nhẫn cưới của hai họ.

**TỤC CÔ DÂU ĐỨNG BÊN TRÁI CHÚ RỂ:
Tục này cũng phát xuất từ dân tộc Goths. Do sự bắt cóc gái về làm vợ, nên chú rể lúc nào cũng sợ bị trả thù. Do đó trong ngày cưới, đã có sự sắp xếp cô dâu đứng bên trái chàng rễ, để anh ta dùng tay trái ôm giữ nàng, còn tay mặt được tự do để ứng phó kịp thời với bất trắc do đàn gái gây ra.

**ÁO CƯỚI MÀU TRẮNG:
Phong tục này chỉ xuất hiện sau năm 1830. Trước kia cô dâu mặc áo cưới màu vàng theo cổ tục của toà thánh La Mã.

**TUẦN TRĂNG MẬT:
Phong tục này cũng phát xuất từ người Goths. Vì hành vi bắt cóc người đẹp về làm vợ, nên sau khi đám cưới xong, chàng phải dắt nàng đi trốn, để tránh sự phiền phức từ bên vợ. Trong thời gian này, cô dâu chú rể phải uống mỗi người một cốc rượu vang làm bằng mật ong.

**NHỮNG CHUYỆN LẠ TRÊN THẾ GIỚI VỀ HÔN NHÂN:
Người Nhật ngày nay tổ chức hôn lễ theo phong tục tây phương, cô dâu mặc áo cưới màu trắng đeo nhẫn cưới. Song song với lễ cưới mới, ngươi Nhật vẫn giữ phong tục tập quán cổ truyền của tổ tiên. Đó là trong ngày cưới, vợ chồng cùng uống chung một ly rượu Sake. Cô dâu không mang khăn voan nhưng lại đội một cái mũ lớn để che cặp sừng của mình. Đây cũng là quan niệm của người Nhật, vì chỉ có hạng đàn bà hung dữ ghen tương hiếp chồng, đầu mới có sừng.

Với các dân tộc Âu Mỹ, trước một ngày tân hôn gọi là 'Wedding Shower', cô dâu và chú rể có quyền quậy phá, để rồi ngày mai vĩnh viễn giã từ cuộc sống độc thân tự do. Nhưng đề tài để cô dâu quậy phá, cũng vẫn là chuyện bếp núc và chuẩn bị cuộc đời làm vợ làm mẹ. Trong dịp này, cô dâu được cha mẹ cũng như gia đình cho của hồi môn để theo chồng.

Nhiều phong tục cổ xưa nay vẫn còn thịnh hành tại Mỹ, như trong ngày cưới cô dâu phải mang trong mình bốn món đồ bắt buộc gồm có: Món đồ cũ của gia đình mình (thông thường là khăn tay của mẹ ruột), món đồ mới của nhà chồng (chiếc áo cưới), một món có màu xanh lơ (sợi dây nịt) và một món mượn của bạn (nữ trang).

Với người Đức, họ tin rằng con số 8 là biểu tượng của sự may mắn trong tình yêu, nên vào ngày 8/8/1988 thanh niên nam nữ cả hai miền Đông và Tây Đức, đổ xô nhau đi làm đám cưới. Ngoài ra người Đức đeo nhẫn cưới bên tay phải.

Tại Áo, phong tục cô dâu khi bước vào nhà chồng, phải liệng vào lò sưởi hay bếp lò, một sợi tóc mai, tục này nay vẫn còn tồn tại ở miền quê. Tại Anh, khi cô dâu chú rể ra khỏi nhà thờ, được mọi người ném gạo vào mình, mục đích chúc phúc và có con cháu đầy nhà.

Người Trung Hoa, khi cô dâu lên xe hoa về nhà chồng phải khóc sướt mướt. Đây là quan niệm có từ ngàn xưa, vì với người Tàu, hôn nhân là cuộc phân ly tử biệt. Người con gái khi bước lên xe hoa về nhà chồng, coi như cũng kết thúc cuộc sống chung với gia đình mình (xuất giá tòng phu). Theo các tài liệu cổ xưa, người Tàu đã biết giáo dục con cái về chuyện phòng the rất sớm.

Trong tác phẩm 'Bạch Hổ Thông' có ghi rằng, năm 79 sau TL, vua nhà Đông Hán đã cho triệu tập, một cuộc họp toàn quốc, gồm các nhà học thuật, sử gia, thầy thuốc tên tuổi, để nghiên cứu về vấn đề giáo dục dân chúng trong lãnh vực tình dục. Cũng theo tác phẩm trên cho biết, con cháu nhà quí tộc, quan quyền từ 15-20 tuổi, phải nhập trường để học hỏi về tình dục, hôn nhân. Nói chung cha mẹ chỉ dạy dỗ con cái qua lối ám thị, một hình thức nhắc khéo mà thôi. Do đó, con gái trước khi về nhà chồng, người mẹ lén bỏ vào rương hồi môn của con gái, gọi là 'Áp Rương Đầy'. Thật ra đây chỉ là một pho tượng làm bằng đất nung, tạc hình đôi nam nữ trong tư thế đang giao hoan. Ngoài ra còn thêm một vật khác gọi là 'Giá Trang Họa'. Đây là một bức tranh vẽ đủ kiểu ân ái của nam nữ. Mục đích của người mẹ muốn truyền lại cho con gái mình kinh nghiệm, thực hành trong đêm tân hôn.

3-NHỮNG NGHỆ THUẬT GỢI TÌNH:

HÔN là một trong những cử chỉ để biểu lộ sự yêu thích nồng cháy, là khúc dạo đầu của lạc thú ái ân, là sự quyến rũ mê ly hứa hẹn mật đường, là nét gợi tình trên khuôn mặt. Bởi vì khi yêu nhau, con người phải vận dụng đủ năm giác quan như nhìn, sờ, nếm, ngửi và lịm hồn.để lắng nghe sự rung động hòa nhịp của hai trái tim nam nữ.

Khi hôn nhau, cơ thể của hai người đã phát tiết ra những kích thích tố gợi tình như Hormone Testosterone, làm cho nước bọt trở thành ngọt dịu, khiến cho đôi nam nữ thêm chao đảo, như vừa hớp xong một ly rượu mạnh. Nụ hôn đã làm cho Thần Pan, phải đảo điên si mê cuồng dại nữ thần Syrimt, đến độ khi nàng biến thành khóm trúc để lẩn trốn tình yêu, thì chàng lại dùng thân trúc để chế thành ống tiêu.

Rồi ngày ngày chàng ngây ngất, lướt môi trên thân trúc, để tưởng tượng như mình đang hôn hít người yêu, một đời thầm thương trộm nhớ. Paul Bandecroux, một nhà chế tạo chất hóa học người Pháp, vào khoảng thập niên 30 của thế kỷ XX, đã phát minh được loại son môi Rouge Baiser. Đặc điểm của loại son này, làm cho làn môi luôn luôn hồng thắm với viền môi tuyệt hảo, dù chàng-nàng có đắm đuối hôn hít loạn cuồng.

Nụ hôn theo chân con người trong mọi sinh hoạt. Năm 1896 lần đầu tiên nhà đạo diễn đựng cảnh hôn hít trên màn ảnh tại Las Vegas, gây sự sửng sốt thích thú của giới trẻ, đồng thời cũng tạo nên làn sóng chống đối của những nhà đạo đức thời đó. Nhưng rồi theo thời gian, càng lúc càng có nhiều người ưa thích hoạt cảnh trên, đưa màn hôn hít lên ngai hoàng đế, trong nghệ thuật thứ bảy tại Hồ Ly Vọng.

Nhưng cũng tùy theo phong tục và tập quán của mọi miền đất trên thế giới, nụ hôn được chấp nhận hay bị cấm đối. Âu Châu đến nay có nhiều vùng, hôn hít nơi công cộng bị kết tội là công xúc tu sĩ. Đặc biệt hầu hết gái buôn hương bán phấn, không thích hôn khách mua hoa. Phương Đông, người Trung Hoa cho rằng hôn hít là hành động sỗ sàng khiếm nhã, còn Nhật thì gọi đó là thú tánh man rợ, dù họ đã chấp nhận Âu hóa từ thế kỷ XIX.

Có điều lạ là hầu hết các tài liệu xưa còn sót lại, cho thấy người Tàu đã biết chuyện hôn hít từ năm 2000 trước TL. Nhiều tranh vẽ cảnh trai gái hôn nhau, cũng được tìm thấy trong các quan tài bằng đá ở Sơn Đông, Tứ Xuyên. Bức tranh 'Bi Hi Đồ’ được xem cổ nhất của Trung Hoa, vừa được sưu tập trong quan tài, tại Huyện Vĩnh Kinh (Sơn Đông). Tranh cở 7cm x 232 cm, vẽ cảnh âu yếm của một cặp trai gái, người đàn ông dùng tay nâng cằm của người đàn bà và cả hai đang hôn hít đắm đuối mê ly. Một Bi Hi Đồ khác cũng vừa tìm thấy trong một ngôi mộ cổ thời Đông Hán, tại Doanh Huyện (Sơn Đông), có cỡ 38cm x 88cm, vẽ cảnh một nam hai nữ đang tình tự hôn hít.

Trong Hán Tự ngày nay, người Tàu dùng chữ 'Tiếp Vận' để chỉ Nụ Hôn. Nhưng ngày xưa văn tự chưa được phong phú, nên phải dùng thành ngữ để chỉ hành động. Trong Tố Nữ Kinh viết từ thời Hán, tác già dùng thành ngữ 'Hàn Khẩu-Đoản Nhiệt', có nghĩa là ngậm môi, nút lưỡi, để diễn tả sự yêu đương bằng miệng. Đến dời Nguỵ-Tấn, lại thấy xuất hiện thêm động từ ' Ô-Dù', trong hai tác phẩm 'Thế Thuyết Tân Ngữ và Tứ Phân Luật Tạng', để chỉ nụ hôn, thay thế cac thành ngữ cũ. Đời Đuờng, thêm nhiều từ ngữ như 'Lưỡng Thần Đối Khẩu, Thiệt Nhập Kỳ Khẩu', làm cho nụ hôn càng ngày càng thêm phong phú.

Qua đời Tống-Nguyên, Phật Giáo Mật Tông của Tây Tạng, theo gót quân Mông vào Trung Nguyên, du nhập thêm những hình tượng 'Hoan Hí Phân' miêu tả hành động trai gái yêu đương hôn hít. Từ đó đã mở đường cho sự phát triển các tranh ảnh dân gian, về nụ hôn nơi công cộng. Hiện tượng này càng ngày càng trăm hoa đua nở, mà nổi bật nhất là tác phẩm 'Kim Bình Mai Từ Thoại' của Lan Lăng Tiến tiên sinh, đã diễn tả hơn 100 kiểu hôn đầy hấp dẫn sôi động. Song song với tác phẩm gơi tình này, còn có nhiều Bi Hí Tự Đồ, đời Minh với 24 trang khắc bản đính kèm trong sách 'Hoa Doanh Cẩu Trận', diễn tả cảnh nam nữ khỏa thân, đang ngồi trong bồn tắm hôn hít. Nhiều danh từ mới xuất hiện trong Hán Tự, chỉ nụ hôn như 'Thâm Chủng, Tế Chủng, Tố Liễu Cá Lữ Tự ..'

Tóm lại Nụ Hôn là một nghệ thuật yêu đương độc đáo của con người, tạo được một khaói cảm nồng cháy, khi môi chạm môi, mặt đối mặt, làm tăng thêm hương vị ngọt ngào quyến rũ, như người xưa đã viết:
' chàng đuổi thiếp về
thiếp hướng về chàng
trò chuyện thỏa thê
còn sung sướng hơn cả động phòng
chàng ôm thiếp
thiếp ôm chàng
gót sen nhón lên
môi chạm môi ngọt hơn đường..'

Trong khi đó người Ý lại tự nhận mình là dân tộc đầu tiên, đã phát minh ra nụ hôn, vì thời thượng cổ, chỉ có đàn ông Ý mới được quyền uống rượu. Do trên mỗi khi vắng nhà, khi trở về, việc đầu tiên là chồng phải ngữi môi vợ, xem nàng thừa lúc chàng đi vắng, có uống rượu trộm không" Đó là nguyên nhân phát sinh ra nụ hôn. Từ đó mọi người bắt chước hôn hít, sử viết vua Louis III của Pháp, đã ban tặng nhiều châu ngọc, vàng bạc, kim cương cho phi tần khi họ đến hôn ông ta. Thế kỷ XIV-XV, tại Âu Châu có nạn dịch truyền nhiễm qua đường miệng, nên thời gian đó nụ hôn bị gián đoạn và cấm chỉ.

Nhưng sau đó khi bệnh dịch đã dứt, nụ hôn lại được thịnh hành và này nay, hôn được coi như một nghi thức xã giao tự nhiên của con người, nhất là tại các nước Âu-Mỹ. Tóm lại ngày nay có hằng kiểu hôn nhưng chung qui vẫn gồm ba loại: Hôn để xã giao, Hôn để biểu lộ tình cảm và Hôn lứa đôi. Theo tổng kết của tờ Madame Figaro Magazine, thì các nước Anh, Mỹ, Tàu, Pháp, Ý, Ấn Độ..rất thích hôn môi, để biểu lộ tình yêu. Đúng như sự nhận xét của các văn nhân nghệ sỹ: 'Nụ hôn là mùa xuân đẹp nhất của tình yêu, là tinh hoa của trời đất vũ trụ ..'

Ngoài nụ hôn, để giữ hạnh phúc tình yêu, con người còn phải biết TRÁNG DƯƠNG BỔ THẬN để thắp sáng ngọn lửa tình. Đây là phong cách của các đấng mày râu nhằm bảo đảm tình yêu vĩnh cửu. Ngày nay có nhiều liệu pháp trị liệu như Testosterone, DHEA, Hormone..chỉ là sự nối tiếp theo bước chân của tổ tiên thời xưa, trên đường đi tìm dược thảo, dược liệu để mong trường sinh bất lão, bồi bổ sinh lực, duy trì tuổi thanh xuân.

Con người không ai không ham muốn, ngoại trừ các bậc thánh nhân đã đạt tới trình độ thiền tâm thiện ý thượng thừa. Do đó từ các nguồn sử liệu còn sót lại, ta biết Hoàng đế cổ Ai Cập là Tutankhamun ăn rể cam thảo mỗi khi gần Hoàng hậu. Với các Hoàng đế Gincomo, Catanova thì cho rằng sò và kẹo chocolat làm tăng cường khả năng tình dục. Ngay cả Shakespeare viết trong tác phẩm 'Lái Buôn Thành Vienne' cũng ca tụng cac loại dược thảo thần diệu, thắp sáng được ngọn lửa tình nơi những kẻ cao niên, cải lão hoàn đồng.

Tại Ấn Độ có bộ kinh Kama Sutra viết về chuyện phòng the với nhiều chi tiết thật mới mẽ, nếu so với ngày nay.

NƯỚC HOA hay hương thơm của tình yêu, cũng là một sự quyến rũ kỳ diệu. Thật vậy, chỉ cần có một vài giọt nhỏ nước hoa trên cổ, trên da của một người đàn bà, cũng đủ làm khựng điếng các đấng nam nhi, gọi mời cả hai bước vào con đường thênh thang của tình ái, sau đó chuyện gì sẽ xảy ra, nào ai biết được.

Đây cũng là chuyện cũ rích, vì ngay từ năm 4600 trước TL, phụ nữ cổ Ai Cập đã biết dùng nước hoa, để làm lợi khí trong tình yêu. Trong lúc gần như nhân loại trên trái đất còn ăn lông ở lỗ, thì tại xứ Kim Tự Tháp, thì người Ai Cập đã đắm chìm trong lạc thú ăn chơi xa hoa trụy lạc. Nhiều bằng chứng thời đó, được các nhà khảo cổ tìm thấy trong các ngôi mộ, điển hình là các bó hoa khô (Pulicaria - Inducata), được dùng để phủ trên quan tài đá ở Héluoan ( Le Caire). Tại mộ vua Toutan Khamon, có nhiều hoa và những lọ nhỏ đựng một loại rễ cây, có tác dụng xông mùi hương. Nhiều bức họa tường vẽ cảnh các phụ nữ đang dự tiệc , người nào cũng trang điể bằng hoa sen và đội vòng hoa trên đầu. Nhiều bức họa còn hướng dẫn cách nấu dầu thơm. Tại thành phố sa mạc Héliopolis, người ta đốt nhựa hương buổi sáng, nhựa thông buổi trưa và hương liệu hỗn hợp Kumphi vào ban đêm, để không khí luôn luôn thơm tho thanh thoắt.

Nói chung, hầu như các thành phố của cổ Ai Cập, nhà nào cũng có vườn hoa. Ngoài phố, dọc theo đường có các trụ đèn thiết kế hình cánh tay, cầm một cốc nhỏ đựng các hương liệu, dùng để đốt ban đêm. Theo sử liệu, thì dân tộc Ai Cập đã phát minh đầu tiên các loại dâu thơm, để chà xát cơ thể khi tắm gội. Phương thức này, về sau được hai đế quốc Hy Lạp-La Mã bắt chước, khi họ chiếm Ai Cập. Những loại thuốc bôi da, giữ gìn nhan sắc cho người phụ nữ, cũng đước chế tạo sớm nhất ở Ai cập và vẫn được lưu trữ trưng bày tại các viện bảo tàng Ba Lê, Luân Đôn..Đây là các sản phẩm có từ 4000 trước TL, gồm dầu thơm, thuốc bôi da làm bằng hợp chất cây Kinh Giới Ô (Origan), quả hạnh, nhựa trầm hương, nhựa Ả Rập..

Sử dụng hương liệu để chế biến dầu thơm cũng như dùng hoa lá làm vật trang điểm, là ước lệ muôn đời của phụ nữ Châu Phi. Tại Turisia, người đàn bà dùng bột cây Dier để chế một loại thuốc bôi da, có mùi thơm chất ngất gợi dục. Phụ nữ Ai Cập thích tô mặt bằng phấn trắng-đỏ, trộn chung với bột vàng mua tại cac tiệm kim hoàn. Ngoài ra cây lá móng tay cũng là dược liệu quan trọng, để chế tạo các hương liệu tình yêu, vì hoa của nó có mùi hương rất nồng nàn, được người La Mã dùng chế tạo thuốc nhuộm tóc. Nhưng phụ nữ Ai Cập thì lại dùng nó để bôi vào gan bàn tay hay sơn móng tay chân và bôi trên tóc trong các bữa tiệc, để tạo thêm sự quyến rũ đối với nam giới.

Ngày nay nuớc hoa được sản xuất khắp thế giới. Tuy nhiên Ai Cập cũng vẫn là nước được ưa chuộng trong ngành chế tạo các hương liệu cổ truyền. Các sản phẩm này lúc nào cũng được trưng bày tại các Hội chợ quốc tế Kham Khalil và bán với giá thật cắt cổ vì phương thức cất nước hoa của người Ai Cập bí truyền.

Sáu mươi năm về trước, Grasse là kinh đô nước hoa của Pháp và cả thế giới. Nhưng nay thời đã biến đổi, địa điểm trên đã bị đô thị hóa, ảnh hưởng đến các cánh đồng hoa. Tình trạng trên cũng đã xảy ra tại Ai Cập là cái nôi sản xuất hương liệu. Do trên các nhà sản xuát nước hoa ngày nay, đã phải lặn lội đi tìm nguyên liệu mới. Đó là cánh đồng Hoa Chanh trên đảo Sicile ở Ý, rừng Hoa Nhài trên khắp các cánh đồng hoa Ấn Độ, Hoa Hồng tại Đông Phi..tất cả đều được chọn giống chính từ các cánh đồng hoa ở Grasse. Tuy nhiên phương pháp chế tạo nước hoa ngày nay đã được kỹ thuật hóa, làm tăng thêm sự quyến rũ kỳ diệu của nước hoa, giúp cho con người gợi lại bao kỷ niệm hương xa.

Trong lúc các người đẹp khắp hoàn cầu, tận dụng mùi hương để tạo thêm sự quyến rũ của phụ nữ, thì cũng lá lúc có không biết bao nhiêu phải đổ mồ hôi vất vả, để chăm sóc, vun xới các cánh đồng hoa cho chúng luôn luôn nở rộ. Họ làm việc thật là khổ nhọc từ Midi của Pháp, qua tới Ispainta (Thổ Nhĩ Kỳ). Từ Cap Bon (Tunisia), Madagascar cho tới Tamil Nadu và Karuataka (Ấn Độ). Tất cả các cánh đồng hoa trăm hương ngàn tía, thi nhau khoe sắc nõn nường, với đủ các loại Hoa Hồng Damascena, Hoa Công Chúa Ylang-Ylang, Hoa Chanh, Hoa Quít, Hoa Nhài..

Riêng công ty nước hoa lừng danh nhất thế giới hiện nay là CHANNEL vẫn giữ đúng truyền thống của nữ chủ nhân sáng lập Coco Channel, cũng là nữ điệp viên ngoại hạng của Pháp, chuyên dùng loại HOA LÀI, để chế tạo loại nước hoa số 5. Công ty này hiện có rất nhiều cánh đồng hoa lài, trên rặng núi Alpes và Ấn Độ.

Nhưng không phải hoa nào cũng đều có mùi hương giống nhau, dù là đồng loại. Tất cả đều phải lệ thuộc vào giống chính, đất đai, khí hậu..cho nên chỉ có các chuyên viên mới có đủ tư cách phân loại hoa, giống.khi quyết định chế tạo nước hoa. Ngày nay các công ty đã chế tạo được máy Đo Mùi Vị (Olifactomètre), để phân biệt các lọai hoa nhưng tựu trung cũng không làm sao sánh nối với cái mũi kỳ diệu của các chuyên viên, trong đó nhiều người đã phân biệt được tới 200 loại mùi hoa. Nhờ vậy các bà các cô mới có đủ các loại nước hoa như Antaeus, Coco Channel, Égoiste, Jacghes..để cho tình yêu chấp cánh.

Tóm lại tan vỡ và hạnh phúc đều là khía cạnh tâm lý thường trực của con người. Bởi vậy đã có nhiều cặp vợ chồng sống chung nhau tới trọn đời, trái lại cũng không ít đôi uyên ương phải ngậm ngùi chia ly ngăn cách vì bao nhiêu ngang trái trùng hằng. Cho nên muôn đời Tình Yêu vẫn là sự bí mật vĩnh cửu, vì vậy không trách Xuân Diệu đã viết:

' Yêu là chết trong lòng một ít,
Vì mấy ai yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ hay thờ ơ chẳng biết..'
Bởi thế làm sao định nghĩa nổi tình yêu"

Mường Giang
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Nhân ngày Tình Yêu-Hạnh phúc 2006

No comments:

Post a Comment