Sunday, September 29, 2019

Ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản





Quý khách đọc toàn bộ bài ở đây 👉 Foreign Minister Wang Yi meets Henry Kissinger

12 Tuyệt Khúc của Ngô Thụy Miên (thu âm trước 1975)




Giáng Ngọc- Lệ Thu



Dấu Tình Sầu - Khánh Ly



Áo Lụa Hà Đông- Duy Trác



Từ Giọng Hát Em - Châu Hà



Thu Về Trong Mắt Em - Sơn Ca



Giọt Nắng Hanh - Xuân Sơn



Mắt Biếc - Duy Trác



Tuổi 13 - Thái Thanh



Niệm Khúc Cuối - Khánh Ly



Giọt Nước Mắt Ngà - Thanh Lan



Tình Khúc Tháng Sáu- Thanh Lan



Paris Có Gì Lạ Không Em - Thái Thanh

Khúc Tình Ca Xứ Huế - Hà Thanh - Giáng Ngọc 2 - Casette



Saturday, September 28, 2019

Như Cánh Chim Tha Hương - Lê Trai

Người Việt hôm nay đang gắng sức để trốn chạy khỏi đất nước mình. Trốn chạy dù lưu vong. Trốn chạy để hy vọng. Không chỉ với kẻ đi mà còn với vô vàn người ở lại.

1. Tháng Chạp trời Hà Nội mù sương. Sớm 9h, mưa phùn lất phất, hạt bay liêu xiêu trong gió. Những chấm người vội vã di động trong cái lạnh trên mặt đất thẫm màu vì ướt. Chưa đầy một tháng nữa sẽ là Tết, cái ngày dễ khiến người ta phiền lòng vì những chúc tụng, những bữa cơm rời rạc và đầy tràn. Nó nhắn tin: “Em đặt vé máy bay rồi. Tết năm nay em ăn Tết ở nhà!“. Nó hớn hở như khoe quà. Đôi khi mọi người mơ hồ không rõ nó đã đi bao năm. “8 năm, em đi từ 2011“, nó nhớ rành rọt. Những ngày rời nhà trọ, lội trong tuyết, tất bật phụ bếp rồi nấu hàng trăm suất ăn cho tới khi kiệt sức dạy nó biết đếm thời gian. Nó vẫn đang đếm thời gian, đếm xuôi cho tới ngày về Tết, và đếm ngược cho đến ngày… ly hôn.

Về pháp lý, nó đã 2 lần vợ. Lần đầu để đi. Lần hai để kiếm tiền trả nợ cho “ván bạc” ban đầu.

Thằng nhỏ giờ đã đang mang quốc tịch khác.

Nhưng những năm tuổi xuân của nó, tuổi 20 mãi nằm trong những bối rối không nói được thành lời. Đôi khi nó tin việc cố gắng là cần thiết. Bố mẹ toan tính, vay nợ, sắp đặt cho kết hôn giả đều là vì sửa soạn cho tương lai của nó. Tương lai của nó cũng là tương lai của cả nhà. Rồi biết đâu cả đời con nó, cháu nó. Rời nước mà đi, chuyện đó nào có ai nghĩ khó. Nhưng đôi khi, những đêm 2h sáng không thể ngủ, những hồ nghi và cơn mù mịt dằn vặt nó trong thống khổ. Tỵ nạn sinh kế hay tỵ nạn ước mơ? Ước mơ để sống của nó đang bó khung trong tháng ngày xa lạ. Cuộc sống vốn đâu đơn thuần chỉ có ăn và mặc.

Ở cố hương của nó bây giờ, đi tìm xứ khác định cư đã trở thành câu chuyện thời thượng. Những ai đã đánh tiếng đi, vô tình chạm mặt người khác sẽ được đón bằng lời hỏi thăm: “Bao giờ đi?“. Đi được là mừng. Rồi người ta chép miệng nghĩ bao giờ mình mới có “cửa”. Dù đi ở đây chính là lưu vong, là rời bỏ nơi họ chôn nhau cắt rốn!

2. Năm 2018 kết thúc bằng ồn ào “quốc thể” quanh việc 152 người Việt mua tour du lịch để bỏ trốn tại Đài Loan. Năm 2019 bắt đầu bằng những tấm hình người Việt chui trong giường hộp, tủ lạnh trốn ở lại Đài Loan để tìm sinh kế. Từ gần 1 triệu người sau năm 1954 đến hàng triệu người sau năm 1975, người Việt đã hoảng hốt di tản, tỵ nạn từ Bắc vào Nam, tỵ nạn ra nước ngoài. Hàng triệu người đã lao ra biển trên những chiếc tàu đánh cá các loại để thoát khỏi đất mẹ của mình, chấp nhận cả cái chết để… lưu vong.

Không ai nghĩ sau ngày “đổi mới”, người Việt còn ra đi khốc liệt hơn thế. Theo số liệu của Tổ chức Di cư quốc tế (IMO) lấy từ nguồn dữ liệu của Vụ Liên hiệp quốc về vấn đề kinh tế và xã hội (UN DESA), từ năm 1990 đến năm 2017, 2.727.398 người Việt Nam đã di cư ra nước ngoài [1]. Trong 28 năm qua, mỗi năm có trên 97,4 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài, bình quân mỗi tháng có hơn 8.000 người Việt ra đi. Mà dễ hình dung hơn, cứ mỗi giờ, 11 người Việt rời khỏi Việt Nam.


Bản đồ di cư của người Việt Nam. (Nguồn: IOM)


Năm 2018, số hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam nhiều hơn 82 lần so với số hồ sơ xin nhập tịch và trở lại quốc tịch Việt Nam (4.418 hồ sơ xin thôi so với 45 hồ sơ xin nhập, 9 hồ sơ xin trở lại quốc tịch), theo số liệu của Bộ Tư pháp.

Những người rời Việt Nam, họ đi đâu? Hơn 1,4 triệu người đã tới Mỹ, 238 nghìn người di cư sang Australia, hơn 190 nghìn người rời nước qua Canada. Đó chỉ là 3 nước mà người Việt chọn để đi đông nhất. Khác với những năm 1954, 1975, làn sóng di cư âm thầm mà dai dẳng sau ngày “kinh tế đổi mới” khiến người Việt có mặt ở khắp nơi trên thế giới, kể cả châu Phi, điều mà trước đó, cả hai miền Nam Bắc đều không hề có.


Sau năm 1975, họ bằng mọi giá phải thoát khỏi nước mình. Sau năm 1990, chẳng có lý do gì để họ ở lại. Theo IMO, người Việt đang di cư để lao động. Di cư du học. Di cư do hôn nhân. Di cư do nhận con nuôi. Di cư do buôn bán người. Trong nghĩa Hán Việt, di cư (移居) chỉ là dời chỗ ở. Còn người Việt đơn thuần hơn, họ gọi tên cho những cuộc ra đi của đồng bào mình là tỵ nạn.

Tỵ (避) có nghĩa là tránh, lánh xa; nạn (難) nghĩa là tai họa, khốn ách. Tỵ nạn (避難) có nghĩa là lánh họa, tránh điều không may xảy tới. Tất cả đều đang lánh họa, sợ hãi cho điều tai ương đang trờ tới.

Những làn sóng người Việt ra đi từ hơn bốn mươi năm trước “tỵ nạn chính trị”, hai mươi năm kéo dài tới nay “tỵ nạn sinh kế”, “tỵ nạn giáo dục”, “tỵ nạn môi trường”. Đó đâu đơn giản chỉ là di cư. Với rất nhiều người, họ đang trốn chạy, trốn chạy vì mưu sinh, trốn chạy để học hành, trốn chạy để cống hiến năng lực, trốn chạy để thở trong một môi trường không ô nhiễm tệ nạn, thiếu nhân quyền.



“Thuyền nhân” (Ảnh trái: FB Thuyền nhân Việt Nam); Ô nhiễm rác thải trên đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi (Ảnh phải trên: Shutterstock); Lội bắt cá, xúc tép ở rạch Cầu Tôm, Đồng Tháp (Ảnh phải dưới: Lê Nhật Vương Anh)


Sài Gòn trước 1975 lề lối trong sạch

Sau 30/4/1975, Sài Gòn bị đổi tên sang Thành phố Hồ Chí Minh, nay bị ô nhiễm trầm trọng, xây dựng đô thị loạn cào cào.

Người nghèo, kẻ bất đắc chí ra đi. Người có tiền, quan chức cũng dọn đường lưu vong để hưởng thụ. 3 tỷ USD người Việt đổ vào mua nhà ở Mỹ công bố năm 2017 chỉ là thống kê sơ bộ của Hiệp hội Quốc gia chuyên viên địa ốc Mỹ (NAR), con số thực tế còn cao hơn nhiều.

Nhưng dù là giới có tiền, người có học hay kẻ cùng đường, chọn con đường tha hương có lẽ ít nhiều vì cùng chung nhau một điểm. Không còn hy vọng vào sự thay đổi của xã hội Việt Nam, họ “tỵ nạn niềm tin”. Không ai muốn sống trong một xã hội từ chối sự thay đổi. Niềm tin bị cùn mòn khi cái ác quá lớn còn lòng thiện lương liên tục phải gắng gượng mỗi ngày. Trong môi trường nhiễm độc, bất kỳ ai cũng có thể trở thành Đặng Văn Hiến, Hoàng Công Lương. Người bần cùng phải chết. Người thanh thiện cũng không tha. Thay vì an sinh, giáo dục và y tế Việt Nam lại trở thành hiểm họa. Xã hội bất tín, giả dối trở thành thói quen để sinh tồn. Quan chức lo ngày “đứt cương”, còn dân sinh thì mỗi lúc sợi dây thuế phí càng thít chặt mặc tệ sách nhiễu, lạm thu, hối lộ đương nhiên tồn tại. Người dân bị cấm nói lên sự thật của đất nước mình…

Theo Gallup, ít nhất 50% người Syria muốn bỏ nước ra đi vì nội chiến không biết bao giờ kết thúc. Khoảng 2 triệu người Venezuela đã chạy khỏi đất nước trong năm 2018. Còn tại Việt Nam, người dân đang tha hương vì thiếu đói. Ít nhất 180.000 người Việt bị đẩy sang nước khác sau thảm họa Formosa. Kiều hối gửi về góp phần tăng GDP và ngoại tệ cho Chính phủ.

Cá chết hàng trăm tấn do ô nhiễm môi trường (công ty hóa chất Formosa thải chất độc ra biển)

Tìm xứ khác định cư, ngay thời bình, đã trở thành mưu cầu để hạnh phúc.

Nơi không người thân, không có ký ức, vẫn rất nhiều người ra đi.

Nhưng khi những xô đẩy của cuộc sống xứ lạ qua đi, sự hoang hoải ở lại. Lao động, làm việc nơi xứ người cần gấp đôi sự kiên cường. Một nửa để thiêu đốt ngày xanh. Một nửa để nuôi lòng ở lại.

3. Người Việt Nam chúng ta sinh sống trên một vùng lãnh thổ mở rộng qua nhiều biến cố lịch sử, thời gian khác nhau, tiếp nối mà thành hình dựa trên các giá trị văn minh của nhiều nền văn hóa. Nơi giữa mỗi miền, trải qua các thế hệ, phong tục, tập quán khác nhau, phương ngôn khẩu ngữ khác nhau, thói quen dưỡng dục cũng khác. Vậy điều gì đã liên kết chúng ta lại thành một thể? Không phải là ở các sản vật văn minh mà là cái gốc văn hóa và truyền thống.

Sự gắn kết văn hóa của một dân tộc khởi nguồn từ sự gắn bó sâu sắc với đất đai và thiên nhiên. Trong cái toàn thể của tự nhiên, con người dần hình thành các phương thức hành vi để phù hợp với cộng đồng, thích ứng với môi trường tự nhiên để tồn tại. Triết lý tinh thần được tạo ra từ đó. Đó đơn giản là đạo lý – giá trị chung mang tính phổ quát – hướng con người tới cách tư duy và hành vi đúng đắn. Vì sự khác biệt địa khu, lịch sử, mà tâm thức của mỗi dân tộc mỗi khác.

Nhưng mỗi dân tộc mang một nội hàm văn hóa riêng, ăn sâu vào ký ức của cộng đồng. Nên dù sinh sống trên lãnh thổ này hay vùng đất khác, tâm thức của mỗi người dân mỗi dân tộc vẫn mang theo dấu ấn văn hóa của dân tộc đó. Khi lịch sử bị đoạn đứt, phong tục tập quán, ngôn ngữ bị tách rời, tự nhiên và các di sản văn minh bị hủy hoại một cách hệ thống, những người thuộc về dân tộc ấy dần trở nên cô độc, đánh mất bản tính tự ngã khi văn hóa không còn.

Nỗi niềm thương quê nhớ xứ từng là điều day dứt khôn nguôi đối với thế hệ đánh cược cả mạng sống để rời nước sau năm 1975. Bốn mươi năm, hai mươi năm sau, tâm thức đó thế nào trong nghĩ suy của mỗi con người Việt còn ở lại và đã di cư sang xứ người?

Sự rạn nứt văn hóa không chỉ bắt đầu bằng những suy đồi về văn hóa trong xã hội Việt trong vùng lãnh thổ Việt. Sự rạn nứt văn hóa khơi nguồn khi những giá trị văn hóa truyền thống bị phá bỏ, di sản bị coi là lạc hậu, giá trị quan thay đổi khi sức mạnh hay sự giàu có được tôn vinh làm thước đo phẩm giá. Trong cơn đứt gãy ấy, dòng di cư thời hiện đại của người Việt không chỉ đơn thuần là một cuộc chuyển dịch mang tính địa khu. Tự bản thân nó đã mang tâm thức lưu vong khi người Việt phủ định văn hóa Việt, các giá trị nhân sinh hình thành trong nền văn hóa đó. Sự luyến tiếc, nhớ thương, những thói quen sinh hoạt, tập quán Việt vẫn được người Việt tại hải ngoại giữ gìn tựa như chỉ dẫn rằng có một nền văn hóa giàu nhân sinh đã tồn tại, có các giá trị văn hóa tinh thần không thể bị thay thế của người Việt.

Năm 1944, luật sư Raphael Lemkin đưa ra thuật ngữ “Cultural Genocide” – Diệt chủng văn hóa, như một phần của tội diệt chủng. Dù chưa được chính thức thừa nhận trong công ước về quyền con người của Liên Hợp Quốc, thuật ngữ này vẫn được lưu ý trong các nghiên cứu về tính tồn vong của một nhóm cộng đồng. Từ góc nhìn về nạn diệt chủng người bản địa ở Canada, nhà xã hội học Andrew Woolford và giáo sư Adam Muller (cùng tại Đại học Manitoba, Canada) cùng đi đến lập luận: “Nếu như diệt chủng là việc phá huỷ nhắm vào sự tồn tại của một nhóm nào đó – tức là nhắm vào điều tạo nên nhóm đó – thì tất cả những hành động được thiết kế để làm cho nhóm đó bị huỷ diệt – về tài sản, văn hóa, chính trị, kinh tế hoặc bất cứ điều gì – đều được tính là diệt chủng” [2].



Trong xã hội Việt hôm nay, mỗi ngày trôi qua, lại có thêm những cá nhân phải chịu đau đớn bởi bất công xã hội, áp bức và cướp bóc, phủ định tín ngưỡng. Trong cái nhìn về toàn thể, sự tổn thương đối với các giá trị văn hóa đang thực sự gieo rắc nỗi đau lên toàn bộ cộng đồng. Những cuộc tấn công vào di sản văn hóa đã và đang làm lung lay nền tảng tinh thần cơ bản của mỗi người: Niềm tin. Niềm tin vào sự thay đổi của xã hội. Niềm tin vào giá trị cốt lõi về tình người. Niềm tin rằng lẽ phải và sự thật là điểm tựa cho công lý. Niềm tin người chính trực được tôn vinh, người thiện lương được đền đáp. Niềm tin xã hội có người giàu, người nghèo, nhưng người nghèo không phải bỏ xứ đi, người giàu không tìm đủ mọi cách “đào xới” nước mình… Khi văn hóa sa đọa, những niềm tin ấy bị rớt xuống đến đáy. Đó là lý do người Việt ra đi, âm thầm và mạnh mẽ như sự đổ vỡ trong nền tảng xã hội.

Hơn bốn mươi năm qua, Việt Nam hiện hữu trước thế giới với tư cách của một quốc gia đã thôi tiếng súng. Có những biến động nằm trong giòng chảy phát triển, có những biến động mà hệ quả để lại là sự đổ vỡ của tự nhiên, của văn hóa, và di sản. Dù ở lại hay ra đi, nhiều người Việt vẫn tiếp tục trăn trở về sự đổi thay của đất nước. Ai cũng hiểu niềm tin là điều cần níu giữ. Không phải chỉ riêng niềm tin vào sự khởi sắc của văn minh xã hội, mà là niềm tin về những giá trị văn hóa hài hòa – cái gốc của nền tảng đạo đức xã hội. Từ bỏ các luân lý phản giá trị, khôi phục văn hóa, tìm về với các giá trị phổ quát của nhân loại, đó mới là lối đi để người Việt Nam rũ bỏ những bế tắc hiện nay, tìm về cội nguồn của chính mình.

Lê Trai

Chú thích:

[1] International Organization for Migration – IOM (https://www.iom.int/world-migration)

[2] Culture Genocide – Chapter 7: Genocide & Mass Violence, website: Facing History and Ourselves (https://www.facinghistory.org/stolen-lives-indigenous-peoples-canada-and-indian-residential-schools/chapter-7/cultural-genocide)

Gốm Hiên Vân - Chuyện Hai Thế Hệ


Khuất bên trong tòa biệt thự thời Pháp thuộc số 8 Chân Cầm, một tiệm gốm nhỏ bé lặng lẽ nằm tách biệt với cái náo nhiệt ồn ào của khu phố cổ Hà Nội. Khiêm tốn và bình yên, chuyện của gốm Hiên Vân khiến tôi vỡ lẽ ra nhiều điều về một dòng chảy vẫn luôn hiện hữu bên trong mỗi chúng ta, dòng chảy của tâm hồn, dòng chảy của ký ức…
Người yêu thích thì sẽ tìm đến với mình anh ạ”, anh chàng chủ tiệm trẻ tuổi sinh năm 91 trả lời bình thản. Trong bộ đồ và mái tóc có phần kỳ lạ, không ít lần Sơn làm tôi bối rối vì cái chân chất trong cậu chẳng thể phù hợp với vẻ bề ngoài. Gắn bó với gốm Hiên Vân từ khi còn trên giảng đường đại học, nhiều lần tưởng chừng thất bại, Sơn cùng một người bạn tri âm đã góp phần đưa dòng gốm Việt mang đậm tính mỹ thuật này đến với những người yêu gốm.

Gốm Hiên Vân cũng trẻ như Sơn vậy. Bố của Sơn, họa sĩ Bùi Hoài Mai, vốn là một người nghiên cứu gốm cổ. Tâm huyết với gốm và luôn trăn trở vì những thế hệ sau này không còn tiếp nối được tinh thần của gốm cổ, nhiều năm liền họa sĩ Bùi Hoài Mai mong có cơ hội được làm gốm. Trong dịp nhận được một dự án kiến trúc lớn, họa sĩ Mai đặt vấn đề đưa gốm vào công trình và được chấp nhận. Vậy là năm 2004, anh về Bắc Ninh, lập một xưởng gốm ở làng Na, xã Hiên Vân, rồi dựa trên mô típ trang trí đình làng và các tấm phù điêu bằng đá thời xưa để tạo nên những bức phù điêu gốm cho dự án.

Xưởng gốm sau đó chuyên sản xuất cho các công trình của họa sĩ Bùi Hoài Mai. Có đầu ra, anh lấy một phần thu nhập để thử nghiệm và tái hiện các loại gốm Việt thời Lý – Trần, Lê – Mạc sử dụng đúng những phương pháp truyền thống. Đó chính là những bài học kỹ thuật cơ bản đầu tiên để tiếp nối dòng chảy và định hình dòng gốm sau này. Gốm họa sĩ Mai làm ra dần dần được giới mỹ thuật biết đến và được mọi người ưu ái gọi là gốm Mai. Sau này, khi suy nghĩ nghiêm túc về xưởng gốm, họa sĩ Bùi Hoài Mai đã quyết định đặt tên dòng gốm này là gốm Hiên Vân, với ước vọng rằng Hiên Vân trong tương lai sẽ có một làng làm gốm.
Rồi một bước chuyển xảy ra, họa sĩ Bùi Hoài Mai không làm công trình nhiều nữa mà muốn tập trung đưa gốm Hiên Vân ra thị trường. Chưa có kinh nghiệm xây dựng thương hiệu và quá vội vã, bước chuyển ấy khiến xưởng gốm khủng hoảng, tồn hàng quá nhiều.

Bấy giờ Sơn chỉ mới tham gia vào Hiên Vân chưa lâu và cũng không hiểu rõ lắm về công việc của bố. Cảm thấy không có quá nhiều hy vọng, cậu quyết định thuyết phục bố, rồi cùng một người bạn mang tất cả đồ gốm của Hiên Vân đi bán rong hạ giá tại khu Bách Khoa và Kim Liên. Ai ngờ sau lần đó, rất nhiều người mới bắt đầu biết đến gốm Hiên Vân. Những buổi đi bán rong đã giúp Hiên Vân trả nợ công nhân, và tạo nền tảng để gốm Hiên Vân kết duyên với ngôi nhà cổ ở số 8 Chân Cầm.

Vừa tạm thời giải quyết được đầu ra cho sản phẩm thì cuối năm 2014, họa sĩ Bùi Hoài Mai đột nhiên gặp khó khăn về sức khỏe, khiến gốm Hiên Vân một lần nữa lao đao, không còn nguồn tài chính để duy trì.

Chàng sinh viên năm cuối hẳn còn rất lông bông chợt lúng túng khi được bố trao trách nhiệm gánh vác xưởng gốm. Bố chỉ nhắn nhủ với cậu con trai rằng: “Người ta nếu nghĩ đến nuôi sống mình thì quá dễ, nhưng nếu làm để nuôi được người khác thì hay hơn nhiều. Nó sẽ khiến mình trưởng thành lên.”

Sơn cũng tâm sự: “Bên cạnh chuyện em tham gia vào gìn giữ một cái gì đó, thì em đã học được rất nhiều bài học, bớt trẻ con đi. Công việc này đã dạy em cách làm người.”
Vay mượn được một số tiền nhỏ, Sơn và người bạn tri âm của cậu bắt đầu học cách quản lý xưởng gốm. Vô tư không tính toán, cho đến giờ cả hai bạn trẻ vẫn chưa có thu nhập ổn định. Nhưng họa sĩ Bùi Hoài Mai tự hào nói riêng với tôi: “Cả hai làm được giỏi hơn tớ. Lương công nhân gấp mấy lần thời tớ rồi.”


Lúc đầu áp lực lớn nhất đối với hai bạn chính là duy trì tinh thần và ngôn ngữ của gốm Hiên Vân: “Bố em đam mê gốm, nên tinh thần của gốm Hiên Vân là sự chắt lọc của một người yêu gốm mấy chục năm trời. Nếu bọn em làm mất đi cái tính nhất quán đó thì sẽ làm dòng sản phẩm này biến đổi mất.”


Nhưng sau một thời gian, hai bạn hiểu được rằng điều quan trọng hơn không phải là làm sao cho giống bố, mà là phải sáng tạo, phải làm việc, hiểu nhau, và chia sẻ với nhau. Dù chưa thể thực sự được như bố, nhưng cả hai hiểu tại sao gốm Hiên Vân đẹp và sẽ không làm mất đi cái đẹp đó.

Tâm sự về dòng chảy gốm cổ mà Hiên Vân muốn tiếp nối, Sơn chia sẻ: “Một sản phẩm gốm muốn có hồn Việt thì không phải là chuyện lấy hoa văn cổ gắn vào gốm. Một chiếc bình đơn giản không có hoa văn cổ xưa, nhưng lại mang đầy hồn Việt. Ngược lại, một chiếc bình với họa tiết chiếc lá đề rồng đời Lý lại trông rất đờ đẫn và không có hồn. Nếu chúng ta lấy quá khứ đóng khung lại, thì tiệm gốm sẽ trở thành bảo tàng mất.”


Sơn nhắc tôi nhớ tới ca khúc “Bonjour Vietnam” mà Phạm Quỳnh Anh biểu diễn. “Vì sao một ca khúc tiếng Pháp, biểu diễn bởi một người Việt chưa từng đặt chân tới quê hương, mà khi hát lên ai cũng biết đó là người Việt? Ai cũng xúc động?” Sơn nghĩ gốm cũng giống như vậy đó, điều quan trọng là sản phẩm có giống như mình mong muốn hay không, có hòa vào dòng chảy bên trong lòng mình – một người Việt – hay không. Đó mới là điều tạo nên tinh thần của gốm.

Họa sĩ Bùi Hoài Mai thì nhắn nhủ với tôi rằng: “Tớ thấy một điều rất lạ, rằng trong mỗi con người Việt Nam đều có một dòng chảy truyền thống. Chỉ cần khơi đúng dòng thôi, thì họ còn làm giỏi hơn tớ, hay hơn tớ. Các sản phẩm của họ vừa giống các cụ lại vừa hay hơn. Tay nghề tớ khéo quá, làm không được tự nhiên bằng. Các học sinh của tớ ở xưởng gốm Hiên Vân, có người đã bắt đầu mở lò gốm riêng rồi. Tớ nói Sơn hỗ trợ họ hết mức. Thế mới hay!”
Rời căn biệt thự cổ số 8 Chân Cầm, tôi bỗng muốn nghe lại ca khúc “Bonjour Vietnam” mà Sơn nhắc, ca khúc từng chạm đến trái tim của hàng triệu con người Việt Nam xa xứ:



Ký ức dân tộc vẫn luôn chảy bên trong mỗi người con của đất Việt, dù ở ngay mảnh đất này hay cách xa thiên sơn vạn lý.

Lòng phảng phất một nỗi hồi hộp có chút ngây thơ, giống như được ngắm một nụ hoa đang chớm nở, tôi thầm ước gốm Hiên Vân sẽ thành công, làng gốm Hiên Vân sẽ thành công. Nhìn thấy những người trẻ tuổi tiếp nối dòng chảy truyền thống từ xa xưa một cách vô tư đến vậy quả là một niềm vui không nhỏ trong dịp xuân về.

Minh Nhật

Nguồn: Trí Thức

Spanish version

Friday, September 27, 2019

Lost Without You - Kodi Lee (America Got Talent 9/26/2019))

Kodi Lee, nhạc công và ca sĩ 22 tuổi vừa mắc chứng tự kỷ và khiếm thị đọat ngôi Quán Quân

Tuesday, September 24, 2019