Bút tích và chữ ký của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ sinh trưởng tại Huế trong một gia đình thanh bạch, thủa thiếu thời ông phải đi dạy kèm con cái các nhà giàu để có tiền ăn học. Cơ duyên đưa đẩy, chính nhờ việc dạy kèm mà ông gặp được cô học trò giỏi, vừa đẹp người lại vừa đẹp nết để trở thành người bạn đường tri kỷ một đời. Và cũng nhờ gia đình vợ giúp đỡ, Ngô Viết Thụ được đi du học ngành kiến trúc ở Pháp năm 1950. Tại Pháp, ông được một giáo sư có nhiều uy-tín là kiến trúc sư Lemaresquier thương mến và nâng đỡ tận tình. Do sự khuyến khích của Giáo sư Lemaresquier, Ngô Viết Thụ ghi danh học thêm ở Viện Kiến Thiết Đô Thị Paris.
Trong khi còn là sinh viên kiến trúc Paris, Ngô Viết Thụ đã đoạt giải Paul Bigel do Viện Hàn Lâm tổ chức. Năm 1955 ông được chọn làm đại diện tham dự giải Khôi Nguyên La Mã (Premier Grand Prix de Rome). Tuy là một vinh dự nhưng cũng là một đòi hỏi lớn cho bản thân vì phải ganh đua, với hàng trăm thí sinh xuất sắc, của Âu Châu. Năm đó cuộc thi chỉ còn có 10 người vô chung kết. Đề tài thi cuối cùng là phác họa một “Ngôi Thánh Đường trên Địa Trung Hải”. Hội đồng giám khảo gồm 29 kiến trúc sư thượng thặng của ngành kiến trúc Âu Châu. Đồ án của thí sinh Ngô Viết Thụ được Hội đồng tuyển chọn nhưng vị Chánh chủ khảo đã gọi Ngô Viết Thụ vào phòng thi để chỉ trích về điểm ông đã vẽ ngôi Thánh đường xây lưng về thánh địa Jesusalem. Nhờ lanh trí và nhờ cái vốn kiến thức về Hán học, thí sinh Ngô Viết Thụ đã viện dẫn tư tưởng triết học Đông phương để biện minh: “Chúa trời là Thượng Đế, là đấng tạo hóa, do đó, Chúa có mặt khắp nơi, nơi nào có ánh sáng là có Chúa”. Trong một dịp tâm sự với kẻ viết bài này, KTS Ngô Viết Thụ đã nhắc lại kỷ niệm trên đây và nói: “Lúc đó bỗng nhiên tôi nhớ tới chữ Hán trong sách Minh Tâm Bửu Giám là “Hoàng thiên vô bất sở tại” câu đồng nghĩa với trời có mặt khắp nơi”.
Bản thiết kế giúp ông dành được giải thưởng lớn khi còn học bên nước ngoài
Nhờ tài ứng đối trôi chảy mà thí sinh Ngô Viết Thụ thuyết phục được vị Chánh chủ khảo để hân hoan nhận lãnh giải Khôi Nguyên La mã, đem lại vinh dự cho dân tộc việt Nam. Lúc đó ông vừa tròn ba mươi tuổi. Giải này đã đem lại cho ông cơ hội ngàn năm một thuở: Ông được cấp học bổng 3 năm liền để ở lại Ý Đại Lợi nghiên cứu và sáng tác. Và lại được ở ngay trong khu biệt thự Médicis, một tài sản lớn của Pháp ở Thủ đô nước Ý. Chính nơi đây, KTS Ngô Viết Thụ đã thai nghén nhiều đồ án kiến trúc để áp dụng trong tương lai tại Việt Nam và đã làm vẻ vang cho sự nghiệp của ông. (1)
Ông am hiểu sâu sắc về phong thủy, kín đáo vận dụng khéo léo hiểu biết trong mỗi tác phẩm kiến trúc của mình, chỉ ai có kiến thức trong lĩnh vực này mới nhận ra. Đối với ông vận dụng phong thuỷ trong kiến trúc là để chiêm nghiệm xem thực hư ra sao, vì nó là lĩnh vực không dễ dàng nói bằng lời.
Một người Vệt Nam đoạt giải “khôi nguyên La Mã” với số phiếu 28/29. Cánh nhà báo lúc đó còn điều tra và giải thích rằng 1 phiếu nghịch mà Ngô Viết Thụ nhận được là do trong số 29 vị giám khảo có 1 vị có học trò cùng tranh tài, nên ông ta chỉ bỏ phiếu thuận duy nhất cho học trò của mình. Khi kết quả được công bố, bạn bè của Ngô Viết Thụ, chủ yếu là người Pháp, đã sung sướng công kênh ông lên vai trên những con phố ở Paris trong niềm vui sướng vô hạn. Cho đến tận hôm nay, Ngô Viết Thụ là người châu Á duy nhất đoạt được giải thưởng “Khôi nguyên La Mã” này. (2)
Ngô Viết Thụ sinh ra ở Thừa Thiên Huế, ông có một tuổi thơ nhọc nhằn, túng thiếu, ở với ông ngoại và may mắn được ông kèm cặp chữ Hán. Năm 1948, học xong Trường Cao đẳng kỹ thuật Đà Lạt, được gia đình vợ giúp sang du học ở Pháp. Năm 1950, Ngô Viết Thụ thi đậu vào Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Paris. 5 năm sau ông bảo vệ đồ án tốt nghiệp kiến trúc sư xuất sắc D.P.L.G, được hưởng suất học bổng ba năm nghiên cứu và sáng tác tại khu biệt thự Madicis của Viện Hàn lâm Pháp tại La Mã. Tại đây, ông đã dự thi thiết kế công trình Ngôi thánh đường trên Địa Trung Hải có sức chứa 40 ngàn tín đồ. Đồ án được lọt vào vòng trong, bao gồm 10 tác phẩm xuất sắc nhất. Vòng cuối, tác phẩm của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đoạt Giải thưởng Lớn Roma về kiến trúc (Premier Grand Prix de Roma).
Ông là thành viên Hội Kiến trúc Sư Pháp SADG (Société des Architectes Diplômés par le Gouvernement) từ 1955 và thành viên Kiến trúc sư Đoàn Việt Nam từ năm 1958.
Năm 1960, KTS Ngô Viết Thụ về Sài Gòn làm việc theo lời mời của Tổng thống Ngô Đình Diệm ở tuổi 30. Về Việt Nam, con đường kiến trúc rộng mở đối với ông, nhiều công trình xây dựng của ông lưu dấu ấn đầy giá trị về kỹ thuật lẫn mỹ thuật.
Năm 1962, ông là người châu Á đầu tiên trở thành Viện sĩ Danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ (H.F. A.I.A.) đồng lúc với một số kiến trúc sư danh tiếng cùng thời như J.H. Van den Broek, Arne Jacobsen, Steen Eiler Rasmussen, Hector Mestre, Amancio Williams, Hernan Larrain-Errazuriz, Emilio Duhart H., Jerzy Hryniewiecki và John B. Parkin.
Sau năm 1975, Ông bị cộng sản bắt vô tù (trại cải tạo) một năm. Vợ ông và tám đứa con đang sống trong cảnh đầy đủ, bỗng chốc mất hết, bà phải tần tảo buôn bán để nuôi con và gia đình. Vì quá vất vả bà đã sanh bệnh, qua đời năm 1977, lúc ấy Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ chỉ có 51 tuổi. Và từ đó ông quyết ở vậy cho tới khi ông bị tai biến mạch máu não ngày 4/3 và ra đi lúc 10 giờ sáng ngày 9-3-2000. (3)
Để tỏ lòng kính mến đối với một bậc thầy trong ngành kiến trúc Việt Nam, Viện Trưởng Viện Đại Học Kiến Trúc Sài Gòn cùng với một số Giáo sư và cũng là môn đệ của ông, đã đứng ra xin phép nhà chức trách địa phương cho phép xe tang cố KTS Ngô Viết Thụ được dừng lại trước cổng Dinh Độc Lập (cũ) để vong hồn ông được nhìn lại lần cuối tác phẩm ông đắc ý nhất trong số các tác phẩm kiến trúc mà ông đã thực hiện trong suốt cuộc đời. (4)
Dinh Độc Lập - Một di tích quốc gia đặc biệt tại thành phố Sài Gòn
Mặt tiền Dinh Độc Lập
Một phía thân chữ T của Dinh Độc Lập
Đây là công trình đầu tay của ông khi vừa tốt nghiệp ở phương Tây trở về, tuy nhiên, nhìn tổng thể, ông không cứng nhắc theo phong cách kiến trúc hiện đại phương Tây mà có sự kết hợp nhuần nhuyễn với kiến trúc Á Đông, đặc biệt là kiến trúc truyền thống Việt Nam.
Khi thiết kế Dinh Ðộc Lập, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ muốn tìm một ý nghĩa văn hóa cho công trình, nên mọi sự xếp đặt từ bên trong nội thất cho đến tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho triết lý cổ truyền, nghi lễ Phương đông và cá tính của dân tộc. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống Phương Ðông. Toàn thể bình diện của Dinh làm thành hình chữ CÁT ( 吉 )có nghĩa là tốt lành , may mắn; Tâm của Dinh là vị trí phóng trình Quốc Thư;
- Lầu thượng là Tứ phương vô sự lầu hình chữ KHẨU ( 口 ) để đề cao giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU ( 口 )
- Cột cờ chính giữa tạo thành hình chữ TRUNG (中) như nhắc nhở muốn có dân chủ thì phải trung kiên.
- Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM ( 三 ), theo quan niệm dân chủ hữu tam viết nhân, viết minh, viết võ, ý mong muốn một đất nước hưng thịnh thì phải có những con người hội đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ.
- Ba nét gạch ngang này được nối liền nét sổ dọc tạo thành hình chữ VƯƠNG ( 王 ).
- Trên cờ kỳ đài làm thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ ( 主 ) tượng trưng cho chủ quyền đất nước.
- Mặt trước của dinh thự, toàn bộ bao lơn lầu 2 và lầu 3 kết hợp với mái hiên lối vào chính cùng 2 cột bọc gỗ phía dưới mái hiên tạo thành hình chữ HƯNG ( 興 ) ý cầu chúc cho nước nhà được hưng thịnh mãi.
Bức rèm hoa đá đặc sắc
Một số công trình khác của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ
Chợ Đà Lạt- Kiến trúc chữ H
Chợ Đà Lạt năm 1970
Chợ Đà Lạt được khởi công xây dựng từ năm 1958, được KTS Ngô Viết Thụ chỉnh trang, đặc biệt là thay đổi diện mạo mặt tiền, thiết kế bổ sung cầu bê tông nối từ khu Hòa Bình (khu B) vào chợ lầu (khu A). Chợ Đà Lạt có 3 tầng, là một trong những chợ lầu đầu tiên tại Việt Nam. KTS Ngô Viết Thụ còn thiết kế một công viên trước chợ kéo dài ra tận hồ Xuân Hương, các dãy phố lầu xung quanh chợ, bên hông có bậc tam cấp dẫn lên đường Lê Đại Hành, tất cả tạo thành một quần thể kiến trúc hài hòa, đẹp mắt giữa lòng thành phố. Nhờ đó, nhiều năm nay chợ Đà Lạt là điểm đến thú vị của du khách thập phương.
Chợ Đà Lạt ngày nay
Đại học Nông Lâm ở Sài Gòn
Mặt chính là tòa nhà Phượng Vỹ được thiết kế theo hình chữ U. Theo KTS giải thích về ý nghĩa của kiến trúc tòa nhà thì thiết kế mặt tiền tòa nhà Phượng Vỹ theo những đường nét của chữ Nông theo Hán tự – 農 (NÔNG) nhắc nhở “Vụ Nông Vi Bản” nghĩa là lấy nông nghiệp làm gốc . Đại học Nông Lâm trước đây có khắc tên của của người thiết kế là ông Ngô Viết Thụ, tuy nhiên sau này đã bị xóa đi.
Nhà thờ chính tòa Phủ Cam
Nhà thờ Chính tòa Phủ Cam (Phường Phước Vĩnh, Thành phố Huế) là một trong những nhà thờ to lớn, nổi tiếng và lâu đời nhất tại Huế. Nhà thờ có lịch sử từ năm 1682, khi đó được dựng bằng tranh tre.
Đến đầu thế kỷ 20, nhà thờ đã trở thành một công trình bằng đá chắc chắn. Nhà thờ có mặt bằng xây dựng mang dạng thánh giá, đầu hướng về phía Nam đuôi hướng Bắc. Nhà thờ có kết cấu theo kỹ thuật xây dựng hiện đại nhưng phần trang trí vẫn theo nghệ thuật cổ điển của phương Tây. Lòng nhà thờ rộng, có thể chứa được 2.500 người đến dự lễ. Nhìn tổng thể, kiến trúc nhà thờ Phủ Cam toát lên vẻ thanh thoát nhẹ nhàng với điểm nhấn là hai đỉnh nhà thờ vút cao.
Nhà thờ Bảo Lộc
Nhà thờ Bảo Lộc là nhà thờ có sức chứa lớn nhất ở Việt Nam, với khả năng chứa khoảng 3000 giáo dân
Viện nguyên tử Đà Lạt
Đây là lò phản ứng duy nhất ở Đông Dương do KTS Ngô Viết Thụ thiết kế. Lò chính phản ứng ở giữa, xung quanh là các phòng làm việc của viện hình vòng cung.
Trung tâm được xây dựng tại một khu vực có diện tích 21 hecta bên đường Nguyên Tử Lực, phía đông bắc trung tâm Đà Lạt. Công trình được khởi công xây dựng từ tháng 4-1961 và được hoàn thành vào tháng 12-1962.
Trường Đại học Sư phạm Huế
Mô hình kiến trúc Việt Nam Quốc Tự
Xem thêm ở đây 👉 Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ: Việt Nam Quốc Tự
Nguồn: Designs
Chú thích:
(1) (3)(4) : https://vietbao.com/a28918/kien-truc-dinh-doc-lap-kts-ngo-viet-thu-qua-doi
(2): https://giacngo.vn/PrintView.aspx?Language=vi&ID=73F218
No comments:
Post a Comment