Giọng đọc Mai Hoa
********************************************************************************* ****************
Lời bạch (phần I):
Tháng Bảy là một tháng đặc biệt. Tháng của Mẹ. Tháng của những cặp tình nhân chia cách được gặp lại nhau bịn rịn đến nỗi trời cũng nhỏ giọt ngâu làm ướt át nhân gian. Tháng Bảy cũng là tháng của những linh hồn liu xiu trôi dạt hội về dương xá để một lần được giải thoát. Thầy Thích Phước An ở Đồi Trại Thuỷ chia sẻ một bài viết về mẹ và những người thân đã xa trong gia đình mà quán chiếu cả cõi nhân sinh và nỗi đau Việt, bài viết “Trãi Hết Cả Một Mùa Tháng 7”.
Lời bạch (phần I):
Tháng Bảy là một tháng đặc biệt. Tháng của Mẹ. Tháng của những cặp tình nhân chia cách được gặp lại nhau bịn rịn đến nỗi trời cũng nhỏ giọt ngâu làm ướt át nhân gian. Tháng Bảy cũng là tháng của những linh hồn liu xiu trôi dạt hội về dương xá để một lần được giải thoát. Thầy Thích Phước An ở Đồi Trại Thuỷ chia sẻ một bài viết về mẹ và những người thân đã xa trong gia đình mà quán chiếu cả cõi nhân sinh và nỗi đau Việt, bài viết “Trãi Hết Cả Một Mùa Tháng 7”.
********************************************************************************* ****************
Đêm qua nằm mơ thấy mẹ
Như thấy ngôi chùa của quê hương
(Huyền Không)
Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ như in, hồi nhỏ sống trong căn
nhà tranh nơi một làng quê nghèo khổ ở miền Trung. Vào những buổi xế chiều cuối
tháng 6 hoặc đầu tháng 7 âm lịch, mẹ tôi hay vắng nhà, bà đi ra đồng nhổ cỏ ruộng
hoặc hái rau. Còn lại một mình ở nhà, không biết làm gì, tôi thường leo lên nằm
trên chiếc võng treo ngay nơi cửa chính ra vào. Tôi nằm yên nhìn những đám mây
đen đang tụ lại nơi những rặng núi xa ở phía Tây, những đám mây đó như báo hiệu
những ngày đông giá rét lê thê đang sắp đến nơi làng quê nghèo khổ này. Thỉnh
thoảng tôi còn nghe những tiếng sấm từ chân trời xa vọng lại.
Tôi nhìn mây và nghe sấm mà tâm trí ngây thơ cứ tưởng tượng
rằng, chắc là sau những đám mây đen kia, sau những tiếng sấm chớp kia, có một
nơi chốn tươi đẹp hơn ở đây? Nơi đó, chắc không có những buổi chiều buồn bã ngồi
chồm hổm dưới đất ăn cơm bên ngọn đèn dầu leo lét, nơi đó chắc cũng không có những
đêm như dài vô tận, ngủ không được, vì sợ oan hồn của những người chết trôi ngồi
khóc than trên hòn đá của dòng sông trước nhà, mà tôi vẫn thường lắng nghe người
lớn bàn tán với nhau mỗi khi chiều đến.
Bây giờ, sau những năm được sống nơi những thành phố mà tôi
đã mơ ước đó, cũng vào những ngày cuối hạ, nhìn bầu trời nhiều mây, thì lòng
tôi cũng chợt u hoài nhớ về vùng quê nghèo khổ mà tuổi thơ tôi đã cố chối bỏ để
ra đi.
Tôi vẫn thường được ông chú ruột của tôi, là một vị sư trụ
trì tại một ngôi chùa trong làng kể lại rằng, khi mẹ tôi có mang tôi khoảng 4
tháng thì cha tôi qua đời. Nên khi mới 7 hoặc 8 tuổi gì đó, là ông bắt buộc tôi
phải vào chùa ở với ông. Vì chú tôi biết mẹ tôi không thể nào nuôi nổi, nhất là
chuyện học hành.
Cha và mẹ đều là người cùng làng, nhưng cha tôi sanh ở bên
này sông, dân làng thường gọi là phía bên núi, còn mẹ tôi ở bên kia sông thì gọi
là ở bên đồng. Bên kia sông là ruộng đồng, mương rạch, nhiều lũy tre nối tiếp
nhau. Vì sanh bên đồng nên mẹ tôi bơi lội và chống sõng rất giỏi. Trừ tháng 9
và tháng 10, nước sông chảy xiết thì tất cả những tháng còn lại trong năm, mỗi
lần đi về ngoại mẹ tôi thường chở tôi đi bằng sõng. Tôi thích đi sõng nhất là
những ngày cuối tháng chạp, vì những ngày đó mùa lụt vừa qua, nên nước sông vẫn
còn đầy. Ngồi trên sõng tôi cứ say sưa nhìn màu xanh của lúa non cùng màu xanh
của bầu trời mùa xuân như quyện vào nhau, từng chùm bông lục bình nở tím cả hai
bên bờ sông.
Nhà ngoại tôi nằm khuất sau nhiều lùm tre, nên cứ mỗi lần
sõng lướt qua được một lùm là tôi lại đếm thử còn mấy lùm tre nữa là đến nhà
ngoại.
Những chuyến đi về quê ngoại bằng sõng với mẹ tôi từ thuở
còn thơ ấy, tôi không ngờ đã âm thầm tác động đến cách nhìn của tôi đối với cái
đẹp, như cái đẹp về thi ca chẳng hạn.
Cái cảnh dòng sông trong bài thơ này của Huy Cận, sao giống
dòng sông của quê ngoại tôi quá chừng!
Này lúc bên đường bóng đứng trưa
Thuyền em qua thác sóng xô lùa
Sông êm, bãi cát con cò đứng
Khỏi vực, lòng em hết sợ chưa?
Và tiếng gà gáy bên đê trong buổi chiều lặng lẽ này nữa chứ!
Tới ngã ba sông nước bốn bề
Nửa chiều, gà lại gáy bên đê
Làng xa lặng lẽ sau tre trúc
Bến cũ thuyền em sắp ghé về
Ở đây, trên đồi cao nơi tôi đang sống, vào những buổi trưa vắng
vẻ hay những đêm khuya khoắt, thỉnh thoảng tôi còn nghe lại được tiếng gà gáy từ
một xóm quê bên kia sông vọng lại. Những lúc như vậy tôi lại nhớ về “làng xa lặng
lẽ sau tre trúc”. Ở đó có căn nhà của ngoại tôi tràn ngập trong nắng vàng,
nhưng bây giờ nó chỉ còn lại trong kí ức mịt mù của tôi mà thôi. Bởi vậy nên “bến
cũ thuyền em sắp ghé về” với tôi chắc chắn sẽ không bao giờ xảy ra nữa rồi.
Khi chiến tranh vừa chấm dứt, tôi vội về thăm lại quê sau
bao nhiêu năm không về thăm được, mẹ tôi dẫn tôi đi thăm mộ ông ngoại, bà ngoại.
Tôi ghé vào thăm căn nhà của ngoại năm xưa, đúng hơn là thăm nền nhà trơ trọi
hoang tàn, vì mợ tôi và các con của bà đều chết trong một trận hai bên đang
giao tranh với nhau, chỉ trừ người con trai cả lúc xảy ra giao tranh không có ở
nhà, còn cậu tôi thì đi tập kết trước 1954 vẫn chưa trở về. Tôi lặng lẽ đứng
nhìn khu vườn, cây dại mọc um tùm, nhìn con đê, mương nước trước sân, cây xoài,
lũy tre sau nhà. Tôi tự nói trong ngậm ngùi với chính tôi rằng, vậy là dù bao
nhiêu người trong căn nhà này đã vĩnh viễn ra đi, chúng vẫn âm thầm ở lại với
bóng tối hơn 20 năm rồi đó. Tôi bỗng xót xa cho mảnh đất đã từng nuôi dưỡng tuổi
thơ của tôi, và cũng xót xa luôn cho những người nông dân chân lấm tay bùn, suốt
đời chỉ có một ước mơ duy nhất là được sống yên trên mảnh đất này, và khi chết
thì cũng được chết ngay trên mảnh đất này. Vậy mà cái ước mơ quá giản dị đó lại
không bao giờ thực hiện được. Tại sao?
Nhà văn Võ Hồng, có một câu truyện ngắn mà đọc rồi tôi cứ nhớ
mãi. Có lẽ vì tác giả cũng sanh ra, lớn lên trên mảnh đất cũng nghèo khổ khô cằn
như mảnh đất quê tôi, nên ông mới ghi lại được tất cả những đau khổ, hạnh phúc,
đam mê cũng như bi kịch của những người đã dâng hết tình yêu nồng nàn cho mảnh
đất:
“… Lên mười lăm tuổi thì cầm liềm đi gặt hái. Rồi thì cày ruộng,
tát nước, gánh mạ, cuốc cỏ. Có bao giờ Lão được an nhàn đâu? Hết thời Tây đến
thời Nhật rồi qua đến thời kháng chiến, Lão mơ ước có một đám đất của mình để
gieo hột giống của mình, cắt lên bó lúa của mình. Sống gần hết đời người mà lúc
nào cũng chỉ có trên tay một cái rựa, trên vai một cái cuốc, trên đầu một cái
nón lá tả tơi ” (Tình yêu đất).
Càng thất vọng về con người bao nhiêu thì những người nông
dân lại càng bám lấy mảnh đất để hy vọng bấy nhiêu.
“… Đất không phản bội người, chỉ có người mới phản bội đất.
Người dậm chân rủa sả rồi bỏ đi. Đất vẫn ở lại nhẫn nại trung thành. Khi người
về, người cứ tưới mồ hôi xuống là đất lại nảy ra lá xanh, đơm hoa, kết quả…”
Khoảng 3 tháng sau ngày giải phóng, cậu tôi từ Bắc trở về. Mẹ
tôi kể lại với tôi rằng, lúc đầu cậu dự tính về xây dựng lại nhà cửa rồi ra Bắc
thu xếp để về Nam luôn. Nhưng sau khi ra Bắc trở lại thì cậu tôi bặt luôn tin tức,
mặc cho sự mong đợi của mẹ tôi và con ông.
Khi nghe chuyện này, tôi hỏi mẹ tôi là khi về cậu có đến
thăm nền nhà cũ của cậu không? Mẹ tôi trả lời rằng, không những đã đến thăm mà
còn đứng lại đó suốt cả buổi chiều nữa, rồi lặng lẽ bước ra mà không nói được lời
nào.
Sở dĩ tôi hỏi mẹ tôi một điều có vẻ vớ vẩn như vậy chỉ để
xác nhận lại những ý nghĩ mà tôi đã tưởng tượng ở trong đầu tôi, chứ làm sao
sau hơn 20 năm xa cách mà trở về lại không đến thăm nơi chôn nhau cắt rốn của
mình? Cho dù đã biết trước là nơi đó nay chỉ còn là miếng đất hoang tàn trơ trọi.
Khi nghe tin cậu tôi về, tôi rất muốn về quê để thăm cho được người cậu mà tôi chỉ hình dung được là rất giống mẹ tôi từ khuôn mặt cho đến dáng đi, vì lúc cậu tôi đi tập kết ra Bắc thì tôi chỉ mới có 5 tuổi. Nhưng rồi cuối cùng tôi vẫn không về được. Vì lúc đó, chỉ rời chùa một đêm thôi là đã không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho chính bản thân cũng như cho chùa rồi, huống chi là đi từ tỉnh này qua tỉnh khác. Đó là chưa muốn nói mỗi khi đi ra đường hoặc ngồi trên xe đò, những người “chiến thắng” đã nhìn như nhìn một quái vật từ hành tinh khác đến.
Vì không về thăm được cậu, nên tôi cứ tưởng tượng lúc cậu bước
vào khu vườn ấy, đứng trên nền nhà ấy, cậu sẽ nghĩ gì khi 20 năm trước cũng
chính nơi này cậu đã từng nâng niu từng chút hạnh phúc (dù là mong manh) với
các con và gia đình? Những người thân nhất đời ông đó nay cũng đã bỏ ông và mảnh
đất này ra đi vĩnh viễn. Tôi lại cứ thắc mắc, lẽ nào những người suốt cả đời cứ
“hoan hô” bên này và “đả đảo” bên kia ấy đến một lúc nào đó cũng phải dừng lại,
vì thân sẽ tàn và sức phải kiệt chứ? Cũng vậy, liệu những khẩu hiệu như “anh
hùng”, “vô địch”, “quang vinh muôn năm”, hay “bách chiến bách thắng”, được viết
khắp hang cùng ngõ hẻm có đủ sức chống đỡ nổi tâm hồn đang quằn quại trong đau
khổ của cậu khi đối diện với cảnh xưa hoang tàn, với nắm mộ của các con và vợ?
Và tôi vẫn hy vọng rằng, đến một lúc nào đó, khi không còn chịu đựng được nỗi
khổ đau này nữa, cậu tôi sẽ phải cúi xuống nhìn lại thân phận mình, thân phận
bi thảm của kiếp người. Chỉ lúc đó cậu mới thực sự “giải phóng” cậu được, thay
vì đòi “giải phóng” cho người khác.
Sau đó tôi về thăm quê, sư chú cho tôi biết là cậu đã vào
chùa ở lại với ông hai đêm. Cậu đã nói hết sự thật về những năm tập kết ra Bắc
cùng nỗi thất vọng khi trở về lại quê hương. Và cậu cũng nói cho sư chú tôi biết
là cậu không về quê ở luôn như đã dự tính lúc ban đầu nữa.
Tôi rất vui khi nghe sư chú tôi kể lại như thế. Vậy là, ông
cậu hiền lành, ít nói mà mỗi lần theo mẹ về ngoại ăn giỗ tôi vẫn thấy đạo mạo
trong chiếc áo dài đen, đầu đội khăn đóng, cầm hương quỳ xuống khấn vái trước
bàn thờ tổ tiên vẫn chưa hề mất trong ký ức tuổi thơ của tôi.
Vài năm sau, tôi được tin cậu mất ngoài Bắc, tôi nghe tin mà
không ngạc nhiên mấy. Tôi nghĩ rằng, những nấm mồ và gia đình tan nát đã đeo đuổi
và ám ảnh cậu tôi cho đến cuối cuộc đời.Vậy là cậu tôi đã vĩnh viễn không bao
giờ trở về mảnh đất đau khổ này nữa. Tôi tự nghĩ, cậu tôi cũng như bao nhiêu
người nông dân chất phác khác, đã yêu mảnh đất này bằng tất cả tâm hồn mộc mạc,
không hề biết tính toán. Nhưng tình yêu không hề biết tính toán đó đã bị mọi
bên lợi dụng. Bên nào cũng tự nhận mình mới là kẻ chiến đấu để bảo vệ mảnh đất
cho họ. Cuối cùng, khi mọi sự đã vỡ lẽ, thì họ mới nhận ra rằng, bấy lâu họ đã
ra đi theo tiếng gọi của hận thù thay vì tiếng gọi của tình thương như họ đã tưởng.
Đó chính là bi kịch không những chỉ riêng cho gia đình cậu
tôi thôi, mà còn cho tất cả những người nông dân hiền lành trên mảnh đất đã quá
khô cằn vì hận thù này.
Mỗi lần có dịp về thăm lại quê, tôi vẫn thường đứng lại bên
này dòng sông, để nhìn qua bên kia sông, sau lũy tre kia là khu vườn của nhà
ngoại, nhưng tôi biết là tôi sẽ không bao giờ trở về lại khu vườn ấy nữa. Mọi sự
đã ra đi cùng với tuổi thơ tôi mất rồi:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ mà không có đò
Tôi còn một kỷ niệm khó phai mờ nữa cũng liên hệ đến dòng
sông ấy. Đó là vào một chiều mùa đông giá rét, tôi đi học ở trường làng về, thấy
cửa đóng im lìm cũng không thấy khói tỏa ra từ bếp như mọi chiều. Tôi đoán là
nhà hết gạo, nên mẹ tôi về ngoại mượn gạo để nấu cơm, tôi liền chạy ra bờ sông
đứng trông mẹ. Lúc ấy, trời chợt nổi gió mạnh, từng cơn mưa trút xuống xối xả,
tôi vẫn đứng co ro trong mưa để đợi mẹ, nhưng chẳng thấy mẹ tôi đâu hết. Chỉ thấy
trước mắt là dòng sông đang chìm trong cơn mưa mịt mù.
Khi lớn lên đi giữa cuộc đời khô cằn và nóng bức, thỉnh thoảng
tôi vẫn nhớ về mùa đông giá rét ấy cùng với người mẹ già suốt đời sống trong cô
đơn hiu quạnh.
Nhiều khi tôi cứ nghĩ vớ vẩn rằng, giả sử tuổi thơ tôi cũng
như tuổi thơ của bao đứa trẻ khác, nghĩa là cũng có cha, có mẹ, có mái ấm gia
đình, thì có lẽ tôi đã không có được những mùa đông buốt lạnh như vậy để mà ngồi
nhớ.
Dường như, chỉ trong đau khổ và bất hạnh thì trái tim của
con người mới dễ rung động hơn với đất rộng trời cao?
*************************************************************************************************
Tháng Bảy như đã nói, có lẻ là tháng lạ nhất trong một năm.
Tháng của Vu Lan tháng của Mẹ, tháng của Ngưu Lang Chức Nữ của
những duyên tình cách trở nhưng lòng vẫn đau đáu nhớ về nhau đến động cả đất trời;
tháng Bảy xá tội vong nhân, và năm nay tháng Bảy lại khít khao với ngày
Father’s Day.
Trong HGYT dịp Vu Lan, quý vị đã nghe phần đầu của bài viết
‘"Những điều ghi được từ mùa thu” của Thầy Thích Phước An ở Đồi Trại Thuỷ,
Nha Trang.
Trong phần đầu câu chuyện, bóng dáng của người mẹ tảo tần
hiu quanh, lẫn trong dòng sông con nước, trong bóng chiều phủ lên mặt ruộng mẹ,
trong túm cỏ trên bờ thửa, trong đám mạ mởn đang lên xanh. Mẹ hiện diện cả
trong chái bếp lạnh tanh, trong cái rổ cắp mượn gạo về nấu cơm cho con.
*************************************************************************************************
Dưới chân núi Bà, nơi phát tích của khởi nghĩa Tây Sơn, trong bóng mát của ngôi chùa vắng, chú tiểu nhỏ lớn lên từ đó.
Dưới chân núi Bà, nơi phát tích của khởi nghĩa Tây Sơn, trong bóng mát của ngôi chùa vắng, chú tiểu nhỏ lớn lên từ đó.
Truyền thuyết về những vị anh hùng hằng trăm năm trước, hình
bóng của những người thân đã khuất qua câu chuyện của những người còn sống, cuộc
đời người nông dân nghèo và xác tín trong niềm tin những câu kinh lời kệ, không
gian bốn mùa của núi non u tịch… Tất cả hòa quyện lại, âm thầm, bền bỉ nhưng
mãnh liệt nuôi dưỡng các chú tiểu thành những nhà sư. Đến lượt mình, các nhà sư
đã lan tỏa vào nhân gian một thứ hào quang, tỏa sáng vào những kiếp đời cần lao
với ruộng đồng làng xóm. Trong dòng chảy bất diệt của văn hóa Việt có phù sa của
tinh thần Phật giáo. Những hạt phù sa ấy khởi nguyên từ những con người hữu
danh và vô danh dưới những thôn xóm rợp bóng tre bóng trúc.
Ngôi chùa của sư chú tôi nằm dưới chân núi Bà, một trong những rặng núi dài nhất của Bình Định. Dọc theo núi Bà, có đến gần mười ngôi chùa, hầu hết đều nằm lưng chừng núi, chỉ có chùa sư chú tôi là nằm ngay dưới chân núi. Sau chùa là rặng núi cao, chung quanh cũng đều có núi và những hòn đá bao bọc. Chính vì nằm nơi vị trí hiểm trở như vậy, nên khi Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc đã lấy nơi này làm kho chứa lương thực và cũng để trấn giữ mặt biển. Nguyễn Nhạc đặt tên là Tân Phủ Càn Dương, cạnh phủ về phía Tây, có một hòn đá rất lớn, mà dân địa phương gọi là đá Đài.
Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì theo truyền thuyết thì nghĩa
quân Tây Sơn đã dùng hòn đá này để quan sát quân chúa Nguyễn. Cũng còn một truyền
thuyết nữa nói rằng, sau khi Nguyễn Huệ chết, quân Tây Sơn bắt đầu suy yếu, một
lần quân Nguyễn từ trong Nam ra tấn công chớp nhoáng cửa biển Cách Thử, cách
Tân Phủ Càn Dương chỉ có năm cây số. Nguyễn Nhạc không còn cách nào hơn là sai
sứ giả ra Thuận Hóa để cầu viện. Vì quá nóng lòng, nên chiều nào Nguyễn Nhạc
cũng trèo lên hòn đá Đài để trông ra Thuận Hóa.
Tôi rất mê truyền thuyết này nhất là khi biết đọc lịch sử và
bắt đầu biết suy tư đôi chút về “vận nước long đong”, nên cứ mỗi lần về thăm
quê, tôi lại ra đứng trên nền gạch đổ nát của Tân Phủ Càn Dương, nhìn lên ngọn
đá Đài, và tưởng tượng cái bóng cô đơn của Nguyễn Nhạc cách đây hai trăm năm vẫn
còn ngả dài trong bóng chiều đang đổ xuống giữa núi rừng hiu quạnh.
Khi tôi vào chùa thì chùa chỉ còn lại có sư chú và tôi. Những
người vào chùa trước tôi đều được sư chú gởi đi học ở các Phật học đường, một số
trong tỉnh và một số vào Nam. Vì vậy chùa gần như vắng vẻ cả ngày, chỉ có buổi
tối là hơi vui, vì có một số thanh niên trong làng vào tụng kinh và ngủ luôn tại
chùa.
Tôi vì còn nhỏ, nên cũng chẳng làm gì vất vả, ngoài hai buổi
đi học ở trường làng, chỉ có bổn phận duy nhất là buổi chiều rót dầu, lau bóng
đèn, thắp hương, hồi chuông trống và công phu chiều. Còn nấu cơm thì sư chú tôi
đã nhờ bổn đạo ngoài làng, khi nào rảnh rỗi việc đồng áng thì có mẹ tôi vào nấu.
Mộ cha tôi nằm trên miếng đất cao trước chùa. Có những buổi
chiều vắng vẻ, sư chú đi vắng, còn lại một mình tôi trong chùa, tôi thường ra đứng
nơi miếng đất cao gần mộ cha mà trông có người vào chùa để ngủ cho đỡ buồn.
Trong số những người vào chùa ban đêm đó, có một người đã lớn tuổi, mù cả hai mắt,
trong làng ai cũng gọi là chú Năm, vì chú là thứ năm. Chú Năm nổi tiếng là người
hung dữ, ai đụng đến là chú chửi càn, kể cả mẹ của chú nữa, bởi vậy nên mọi người
gần như xa lánh chú hết.
Nhưng không hiểu vì sao, một hôm chú vào chùa xin ban đêm được
vào chùa để tụng kinh niệm Phật. Chú Năm nhờ tôi chép kinh cho chú trong tập vở
học trò. Cách học của chú là cứ nhờ tôi đọc lên một câu, rồi chú cứ lẩm nhẩm câu
đó trong miệng cho đến khi thuộc thì nhờ đọc câu khác. Cứ như vậy, chỉ đâu chừng
hai năm, chú không những đã thuộc cả hai thời công phu, mà còn cả Phổ Môn và Hồng
Danh nữa.
Vì nhà nghèo, chú Năm phải làm lụng vất vả suốt ngày, có khi
thì đi mót lúa, có khi phải vào núi để kiếm củi mang về. Vậy mà trong số những
người vào chùa chú Năm là người siêng nhất, chú tự nguyện đóng chuông buổi tối
và khuya. Có những buổi khuya ngủ quên hết, một mình chú thức dậy mò mẫm lên thắp
hương, đóng chuông xong thì tụng kinh cho đến gần sáng. Nhưng tiếng tụng kinh của
chú Năm tôi nghe sao giống cuộc đời của chú quá! Nhiều khi trong những đêm
khuya nghe giọng chú cất lên, tôi có cảm giác như chú đã gởi trọn tấm lòng mình
vào tiếng kinh lời kệ như tiếng than dài não ruột mà chú đang âm thầm mò mẫm bước
đi vậy.
Những năm tháng ở trong chùa, sư chú tôi vẫn thường kể lại
cuộc đời của cha tôi cho tôi nghe. Dù là kể cho tôi, nhưng trong khi kể tôi vẫn
nhận ra một chút thương tiếc ngậm ngùi của sư chú về người anh mệnh yểu của
mình. Đại khái cha tôi cũng chỉ là một người nông dân bình thường, nhưng theo
sư chú thì cha tôi rất khỏe mạnh và giỏi võ, nên mỗi khi lên núi đốn củi cha
tôi đều xuống núi trước những người khác mặc dù cùng lên núi một lần.
Vì được nghe kể hoài như vậy, nên những chiều một mình trong
chùa, tôi mới hay ra đứng gần mộ cha để nhìn lên dãy núi cao sau chùa, rồi cứ
thắc mắc không biết khi đi đốn củi cha tôi có leo lên ngồi nghỉ mệt nơi hòn đá
bên đường mòn kia không? Hay khi đứng nhìn một cây cổ thụ, tôi cũng cứ thắc mắc
là khi còn sống cha tôi có đứng nhìn cây như tôi đang nhìn đây không?
Tôi không ngờ, chính nhờ người cha mà tôi chưa hề một lần gặp
mặt này, đã đưa tâm hồn tôi đến gần với núi non. Và dường như cũng đã cảm nhận,
dù rất mơ hồ một cái đẹp hùng vĩ của núi non? Tôi thuộc gần như nằm lòng từng
hòn đá, từng gốc cây, từng con suối trên lối mòn đi lên núi. Tôi lại còn nhớ rõ
tiếng hót của các loài chim nữa, như mùa xuân thì có tu hú gọi bầy, tháng tư
tháng năm thì cu cườm từ đâu bay đến, tiếng gáy của chúng nghe xa vắng làm sao
trong những buổi trưa hè tĩnh mịch. Đầu tháng 7 thì từng đàn két buổi sáng bay
vào núi ăn trái sim, buổi chiều lại bay về trong nắng thu dìu dịu. Rồi tháng 9
tháng 10 đến, tiếng con mang từ trong núi vọng ra. Tôi nghe dân làng nói rằng hễ
năm nào có mang về kêu thì năm đó làng có người chết hoặc tai nạn xảy đến. Vậy
nên ai trong làng ai cũng cầu mong mùa đông sang năm mang đừng về nữa.
Nhờ những năm tháng tuổi thơ sống với núi non như vậy nên
tôi có thể lãnh hội được dễ dàng những lời sau đây của một người vừa từ đỉnh
núi cao nhất trở về:
“… Muốn thấy được sự cao cả của ngọn núi, người ta phải quan
sát nó từ xa. Muốn hiểu nó, người ta phải đi chung quanh để rung động với nó.
Muốn cảm thông nó, người ta phải sống với nó từ buổi rạng đông đến lúc chiều
tà, trong cơn mưa phùn cũng như trời nắng gắt, mùa đông cũng như mùa hè… Khi đó
họ sẽ hiểu được rằng những ngọn núi cũng có một đời sống không khác gì đời sống
của chúng ta bao nhiêu…”
Tôi vẫn còn nhớ cũng hồi còn ở chùa nơi rặng núi ấy, cứ mỗi
lần đến ngày kỵ Tổ thì tôi thường nghe sư chú tôi căn dặn bổn đạo của chùa hãy
chuẩn bị đón tiếp “chư sơn”, còn nếu có cuộc họp để bàn Phật sự trong vùng thì
gọi là họp “sơn môn”. Cách gọi như vậy ngày nay dường như đã không còn nghe nữa.
Nếu có thì cũng chỉ các chùa ở miệt miền quê hẻo lánh mà thôi. Thực ra, ai mà
chẳng biết, ít ra là trên mặt chữ nghĩa rằng tên gọi hoặc danh xưng vốn chẳng
có nghĩa gì cả.
“What’s in a name? That which we call a rose by any other
name would smell as sweet”.
Sá gì trong một danh xưng
Thế mà thiên hạ kẻ mừng người đau
Hoa hồng dù gọi thế nào
Thì hương vị vẫn ngọt ngào xưa nay
(W. Shakespear - Đặng Ngọc Chức dịch)
Vậy mà bây giờ nơi các chùa ở những thành phố ồn ào náo nhiệt
kia, con người cũng ồn ào náo nhiệt theo danh xưng này, chức vụ nọ mà quên đi
ngọn núi cao trong hồn mình, vốn biểu tượng cho sự đi lên của người xuất gia học
đạo.
“… Trong đời sống hàng ngày, tại những đô thị ám khói, dưới
vùng đồng bằng chật chội con người hầu như quên đi sự liên hệ giữa họ và vũ trụ,
do đó họ cần một biểu tượng gì để nhắc nhở, để thúc đẩy họ, để hướng tầm mắt
lên cao hơn. Núi đã đóng vai trò này nhưng tiếc rằng vì quá bận rộn với những
tham vọng tầm thường, nhỏ mọn của đời sống vật chất, không mấy ai còn cảm nhận
được sự giục giã âm thầm, thỉnh thoảng mới có người bất chợt cảm thấy một cái
gì thôi thúc họ phải gạt bỏ những hệ lụy của đời sống để tìm đến một cái gì cao
đẹp hơn. Họ bắt đầu đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống, và sự liên hệ của họ
với thiên nhiên với vũ trụ…” (Con đường mây trắng – Lama Govinda)
Nếu tôi không lầm, thì hầu hết những người mồ côi cha hoặc mẹ,
thường rất thích đọc hoặc nghe kể về những cảnh ngộ giống như mình để được an ủi,
được vuốt ve cho đỡ bớt tủi thân. Tôi mồ côi cha từ thuở chưa sanh, nhà lại
nghèo, nghĩa là chưa một lần biết gì về “tuổi thơ êm đềm” như bao đứa trẻ khác.
Thế nhưng tôi chưa hề biết tủi thân là gì, vì tôi vẫn luôn tự nhắc nhở với
chính mình rằng:
Chẳng phải nhờ mẹ mà tôi thấy được cái đẹp của dòng sông, để
từ đó tôi biết yêu thương cuộc đời này hơn! Còn cha? Chính nhờ những chiều đứng
bên mộ cha mà tôi mới thấy được núi cao, để từ đó mới biết ngẩng mặt lên mà
nhìn bầu trời cao rộng thay vì phải lầm lũi bước đi dưới mặt đất thấp đen này.
Thích Phước An, Nha Trang mùa Vu Lan Phật lịch 2545 (Dương lịch 2001)
*************************************************************************************************
Thông tin về Hòa Thượng Thích Phước An
Vào mùa Phật Đản 2016, cuốn tuỳ bút ‘Đường Về Núi Cũ Chùa
Xưa’ của thầy lần đầu tiên được được in lại ở Sài Gòn, nhờ sự kiện này mà công
chúng quan tâm mới có được một ít thông tin về Thầy từ một bài viết hiếm hoi và
cẩn trọng của Lam Điền trên Tuổi Trẻ.
Đến đầu năm 2018, trong một bài viết khác của Bác sĩ Đỗ Hồng
Ngọc nhân chuyến ghé thăm Thầy tại Chùa Hải Đức trên Đồi Trại Thuỷ ở thành phố
Nha Trang cũng nhắc lại những điều như Lam Điền đã nói Thầy Thích Phước An -
“người còn lại của nhóm tao nhân mặc khách”.
Nhóm “tao nhân mặc khách” mà Lam điền nhắc tới đây là những
tên tuổi như Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Quách Tấn, Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh
Thát, Hòa thượng Thích Trí Thủ Ni sư Trí Hải… Những nhà tư tưởng hiếm hoi của
nước Việt đi từ Đại học Vạn Hạnh thời Việt Nam Cộng Hoà.
Nếu những vị cùng thời ít nhiều có thể dễ dàng tìm thấy
thông tin trên Google, thầy Thích Phước An từ sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản,
thầy ẩn cư vào thế giới của Phật Pháp trên Đồi Trại Thuỷ, hẳn thày cũng thu vén
để không làm khing động thế giới truy đuổi và tìm kiếm của chúng sanh.
Có một sự tình cờ mà tấm ảnh chụp thầy Thích Phước An dẫn thầy
Tuệ Sỹ xuất hiện trên cuốn sách “tuyển tập văn học nghệ thuật đánh dấu 40 năm
(1975-2015) người Việt tị nạn và định cư tại Úc”, ấn bản duy nhất bằng hai ngôn
ngữ Việt Anh do Cộng Đồng Người Việt Tự Do NSW in với số ấn bản hạn chế.
Tấm ảnh này chụp lúc thầy Thích Phước An đưa thầy Tuệ sĩ vào
Sài Gòn trên chuyến tàu lửa Nha Trang Sài Gòn khi thầy Tuệ Sỹ vừa mãn hạn 14
năm tù từ Nghệ An ra ghé chùa Hải Đức thăm các thầy ở đây.
Ảnh không đề tên tác giả, không biết ai đã có nhân duyên để
ghi lại khoản khắc hiếm hoi cho một tư liệu quý mà chúng ta có được ngày nay.
Trong số những người cùng thời, Thầy Thích Phước An là một
người rât thầm lặng.
Vào cái thời các bạn tao nhân của Thầy hoạt động xuât sắc và
nổi bật, thầy chọn làm người độc giả.
Rồi khi lớp trí thức tiên phong trong việc chiêm nghiệm mong
tìm ra một nền tảng cho đạo đức triết học Việt bị cắt lìa, bị dập tắt bị bóp
nghẹt tiếng nói thì Thầy Thích Phước An đến lượt mình - lặng lẽ như thầy vẫn vậy,
nhặt lấy ngọn cờ từ lớp trên ngã xuống, tiếp tục cuộc hành trình tuệ giác cho
dân Việt - từ những bài viết của mình về Triết học Phập giáo Việt Nam như một nền
tảng cho đạo lý Việt.
Lịch sử dựng nước xây dựng quốc gia Việt Nam gắn liền với lịch
sử hình thành Phật giáo tại Việt Nam để từ đó hình thành lên văn hoá Việt.
Đã có những thời kỳ Phật giáo là quốc giáo trong nhiều thế kỷ
liền tạo nên những thời kỳ hưng thịnh cho nước Việt.
Mỗi tôn giáo du nhập vào Việt Nam hay hình thành ở Việt Nam
đều đem vào mình đạo lý người Việt. Vì vậy có thể tìm thấy Triết học Phật giáo
Việt trong các tôn giáo khác và ngược lại các giáo lý căn bản của các tôn giáo
khác có thể được tìm thấy trong đạo lý của Phật giáo tại Việt. Nam.
Những bài viết của Thầy về kinh Phât mà đẹp, đẹp một cách lẫm
liệt và não nùng mà cũng trong ngần như giọt sương buổi sớm. Cây viết Nguyễn
Hoa Lư đã phải kêu lên rằng“Thật là thiếu sót nếu sách giáo khoa viết cho trẻ
con học không tìm đến những tác giả như Thích Phước An.”
Xin được chia sẻ một đoạn viết trong trong bài Kinh Địa Tạng
– Bà Mẹ của mặt đất điêu linh
“Mỗi khi có dịp đạp xe ra khỏi thành phố dọc theo những con
đường quê, bất chợt nhìn thấy dây mướp hay dây bầu trổ bông vàng bên cạnh những
đọt non mơn mởn thì lập tức tâm hồn tôi lại quay về những ngày thơ ấu của tôi. Ở
đó, có đồng lúa chín vàng đang nằm phơi dưới ánh nắng gay gắt của những ngày cuối
hạ, có con sông chạy ngang qua trước làng đầy nước sau những tháng hè khô cạn,
có từng đàn két kêu la inh ỏi cứ buổi sáng bay vào núi để ăn trái sim, rồi buổi
chiều lại bay về trong bầu trời đầy mây trắng khơi vơi, và quan trọng hơn nữa
là có hình bóng của mẹ tôi đi chợ về đội trên đầu cái rổ có mấy trái bầu, trái
mướp hay những bó cải tươi nước còn dính nơi đầu ngọn. Bây giờ thỉnh thoảng tôi
vẫn còn ngồi nghĩ bâng quơ, nếu có một màu xanh đậm đà nào còn đọng lại trong
tuổi thơ của tôi, thì nhất định đó phải là màu xanh ở những trái bầu, trái mướp
hay bó cải tươi nước còn dính ngọn mà tôi vẫn thường ngồi ngóng bà về, từ nơi
ngạch cửa trước nhà.”
Những bài viết của thầy cẩn trọng về học thuật, giàu kiến thức
và luôn gắn chặt vào lịch sử Việt đạo lý Việt. Tiếc rằng ngày nay thế hệ các
trí thức tương lai của nước Việt đã không còn một nơi như Đại học Vạn Hạnh ngày
nào để được nghe thầy giảng như cách các thầy đã từng nghe các thế hệ cha anh
trước truyền đạt kiến thức.
Câu chuyện "Những điều ghi được từ mùa thu” là một phần
trong bức tranh lịch sử Việt, một lịch sử không mấy gi vui.
Nhưng nghĩ cho cùng, nhân gian làm con người mọi vui buồn cuối
cùng chỉ như mây trắng bay ngang trời. Chỉ có tình yêu thương là ở lại.
Nguồn: SBS/Mai Hoa
No comments:
Post a Comment