Audio
Ba tầng gác chuông chùa Keo (tỉnh Thái Bình) rêu phong và mềm mại với những đầu đao uốn cong ở mỗi góc mái, nét mờ sương ảo trong buổi sớm mai nhìn từ chùa Thiên Mụ (Huế) ra dòng sông Hương đến vẻ tĩnh lặng, linh thiêng trong chùa Ngọc Hoàng (Đa Kao), với ba ngôi chùa đặc trưng của mỗi miền, nhiếp ảnh gia người Pháp Nicolas Cornet mở đầu cuốn sách ảnh song ngữ Anh-Pháp, dầy 250 trang, giới thiệu về Chùa Việt Nam (Pagodes/Vietnam/Pagodas) (*).
« Đi dọc Việt Nam từ ba thập niên qua, tôi đã có thể nhìn thấy những thay đổi về cảnh quan, thành phố và nông thôn do kinh tế phát triển mạnh mẽ ». Giải thích trong lời giới thiệu, nhiếp ảnh gia Nicolas Cornet cho biết « rất quan tâm đến số phận của những ngôi chùa », dường như cũng bị cuốn theo dòng xoáy đổi mới. Chính điều này đã thôi thúc ông làm tập sách ảnh Chùa Việt Nam, theo giải thích của ông khi trả lời RFI tiếng Việt :
« Tôi muốn làm một cuốn sách mới về Việt Nam nói chung, từ Bắc xuống Nam. Tôi hình dung ra đó sẽ là một chuyến chu du thú vị. Rồi tôi nhớ lại một lần đi vãn cảnh chùa, khi tôi đến đó, ngôi chùa bị thay đổi hoàn toàn. Cột kèo cũ bị gác sang một bên và tôi thấy người ta đang thay vào đó là một ngôi chùa mới. Chính điều này đã thôi thúc tôi làm một dạng thống kê, một chuyến du ngoạn qua những ngôi chùa Việt để thấy được thực trạng của những ngôi chùa từ Bắc đến Nam ».
[B]Đặc trưng của chùa ba miền[/B]
Đối tượng chính của cuốn sách là độc giả nước ngoài, vì thế bố cục cũng được chia thành năm chương, bắt đầu từ những ngôi chùa cổ (chùa Dâu, Bút Tháp, Tây Phương, Yên Tử...) đến những ngôi chùa có liên quan đến những thiền sư, nhà vua nổi tiếng của Việt Nam và những ngôi chùa ở miền Trung (chùa Từ Hiếu, Diệu Đế…) và miền Nam (chùa Giác Lâm, đền Thiên Hậu, chùa Bà Đen…). Kèm với hình ảnh về mỗi ngôi chùa là những nét chính giới thiệu lịch sử và chú thích về đồ thờ hoặc hoạt động trong chùa.
« Miền Bắc, miền Trung và miền Nam rất khác nhau. Với tôi, ở miền Bắc có rất nhiều chùa cổ. Không chỉ có mỗi đức Phật hiện diện, mà còn có nhiều thánh thần khác, những anh hùng... cũng được mời ngự trong chùa. Chùa ở miền Nam thì lại không như vậy, như trường hợp những ngôi chùa Khmer, và cũng khác với những ngôi đền của người Hoa, ở đó họ thờ thần là chính và thường thì đức Phật cũng có một vị trí nào đó.
Vì vậy, tôi muốn chỉ ra các nét đặc trưng của mỗi miền. Ví dụ như ở miền Trung, phong thủy và cân nhắc về sự hài hòa của ngôi chùa với phong cảnh là điều rất quan trọng. Với 250 trang sách ảnh nói về chùa, điều này giúp tôi giải thích chi tiết về những đặc trưng, một mặt về Phật Giáo, và mặt khác về truyền thống tôn thờ của người Việt, cũng như những nghi lễ thờ phượng trong chùa ».
Chùa trong ảnh của Nicolas Cornet hiện lên cổ kính và trầm mặc. Các chất liệu gỗ, gạch, ngói, đồng, đá làm nên ngôi chùa được nhấn chi tiết trong cuốn Chùa Việt Nam. Nicolas Cornet chụp từng họa tiết trong « Những kho báu dưới mái chùa », từ những tấm phù điêu gỗ được chạm trổ tinh vi thuật lại tích nhà Phật, đến hình ảnh trang trí trên những quả chuông đồng…
« Khi đi vãn cảnh chùa, người ta có cảm giác như đang tham quan một viện bảo tàng, ví dụ ở Pháp có bảo tàng Guimet (Bảo tàng Nghệ thuật châu Á, quận 16, Paris). Ở Việt Nam, trong một vài ngôi chùa có rất nhiều cổ vật, các cột trụ được chạm trổ tinh xảo, rất nhiều họa tiết nhỏ được khéo léo khắc trên tượng gỗ hoặc công trình bằng đá...
Tôi muốn cho thấy khía cạnh này vì khi nói về di sản của những ngôi chùa, người ta phải đề cập đến cả di sản nghệ thuật. Các ngôi chùa nơi mà dân làng coi là của mình, cũng lưu giữ một phần lớn nền văn hóa Việt Nam. Vì thế, điều quan trọng với tôi là cho thấy một cách chi tiết những đặc trưng của mỗi ngôi chùa ».
Ngoài mặt lịch sử nghệ thuật và di sản, chùa Việt dưới ống kính của nhiếp ảnh gia người Pháp sống động qua những hoạt động đời thường : một Phật tử thành tâm gõ mõ niệm kinh, đoàn người mang lễ vật lặng yên cầu nguyện, cảnh hóa vàng, rồi những chú tiểu học tập và chơi đùa trong sân chùa… Nicolas Cornet đã rất tinh ý nêu lên điểm khác biệt về mặt xã hội trong những ngôi chùa ở ba miền Việt Nam.
« Ở miền Bắc, dân làng có cảm giác là chùa thuộc về họ, vì thế họ tổ chức những cuộc họp, tập trung nhau lại để cùng cầu nguyện. Ở đây, có điều gì đó thiên về lễ lạt và cầu cúng. Ở miền Trung, có những ngôi chùa dành để giáo dục trẻ em. Trong chùa ở miền Nam có Phật chữa bệnh, có nghĩa là có nhiều bác sĩ khám bệnh với giá phải chăng ở chùa hoặc trong chùa có tủ thuốc y học truyền thống.
Vì thế, tôi muốn cho thấy mặt xã hội của những ngôi chùa, chứ không chỉ dừng ở khía cạnh di sản. Thường thì trong các cuốn sách trước đây của mình, tôi bị cuộc sống hàng ngày cuốn hút nên tôi muốn cho thấy người Việt sử dụng đền chùa như thế nào ».
Mong muốn bảo tồn chùa cổ
Nicolas Cornet coi mỗi chuyến đi của mình là một chuyến chu du, khám phá con người và đất nước mà ông đã gắn bó gần 30 năm. Với ông, chuyến xuyên Việt qua những ngôi chùa là chuyến đi đẹp nhất.
« Tôi bỏ rất nhiều thời gian và với tôi đó là một chuyến du ngoạn tuyệt vời mà ở cuối cuốn sách, tôi khuyến khích mọi người nên thử. Tôi lập danh sách những ngôi chùa mà tôi đã tham quan, có địa chỉ ghi rõ ràng, đánh dấu theo đúng tiếng Việt.
Với tôi, đây là một chuyến chu du lặng lẽ, đơn độc, nhưng điều đó không ngăn cản tôi gặp được rất nhiều người, có nhiều cuộc trao đổi khá thú vị. Đây cũng là cơ hội khá độc đáo để khám phá Việt Nam, được yên tĩnh một chút, tránh được ồn ào thành phố và là dịp để tôi tìm hiểu thêm về văn hóa, bản sắc Việt Nam ».
Quặn lòng trước nhiều thay đổi mà ông chứng kiến ở một số ngôi chùa, Nicolas Cornet muốn lưu lại hình ảnh về truyền thống, về những ngôi chùa cổ ở Việt Nam trong tập sách ảnh, trước khi những công trình này bị tác động bởi thời gian và hoạt động của con người. Không nhận là chuyên gia, nhưng ông đề xuất một số biện pháp bảo tồn đã được một số chùa áp dụng.
« Trong những ví dụ rất thiết thực mà tôi nêu trong sách, có trường hợp chùa Giác Lâm ở Sài Gòn - trước là một trong những ngôi chùa lớn nhất thuộc tỉnh Gia Định. Thay vì trùng tu, họ bảo tồn toàn bộ khu vực cổ của chùa và ngay bên cạnh đó, họ xây một ngôi chùa mới để đón nhiều Phật tử hơn. Đây là nơi tổ chức thuyết pháp, cầu nguyện, ăn chung vì có rất nhiều Phật tử hành hương và ngủ ngay tại chùa.
Kinh nghiệm này có thể là một ví dụ nên theo. Tôi không phải là một chuyên gia trùng tu chùa, tôi chỉ nêu lên thực trạng bằng cách thống kê di sản. Sau này, những người muốn bảo vệ di sản của đất nước, chính họ là người sẽ tìm ra cách thực hiện. Ở châu Âu, chúng tôi cũng mất rất nhiều thời gian để cải thiện đội ngũ chuyên cập nhật danh sách những di tích và thủ tục để gia cố, sửa chữa, trùng tu.
Ở Việt Nam, trường Viễn Đông Bác Cổ đã thu thập rất nhiều tài liệu cho đến thế kỷ XIX. Trường có mặt ở Cam Bốt và giúp trùng tu nhiều ngôi đền Khmer. Ngoài ra, còn có rất nhiều nhóm nghiên cứu Nhật Bản, Hàn Quốc mà người ta có thể kết hợp để trao đổi quan điểm, cùng nghiên cứu xem làm thế nào để trùng tu tốt nhất.
Với tôi, điều quan trọng là phải bảo tồn địa điểm mà người ta có thể tham quan để hiểu được văn hóa. Có nhiều việc phải làm và mỗi người có thể tìm ra được một giải pháp và chính người Việt phải tự đứng ra tìm các giải pháp bền vững cho tương lai ».
Đền chùa Việt Nam được làm chủ yếu bằng gỗ, nhưng vật liệu này lại dễ bị xuống cấp do tác động của mối mọt và khí hậu nóng ẩm. Từ hơn một thế kỷ nay, các nhà nghiên cứu Việt Nam và Pháp, trong đó có trường Viễn Đông Bác Cổ, đã tiến hành tu bổ và gia cố nhiều công trình. Kỹ thuật này dù tốn kém, nhưng giúp các công trình giữ lại được vẻ đẹp nguyên thủy và giá trị văn hóa. Nhiếp ảnh gia người Pháp hy vọng, người Việt và người nước ngoài yêu Việt Nam cùng chung tay để truyền lại cho con cháu di sản văn hóa được bảo quản trong điều kiện tốt nhất.
Chú thích:
(*) Nicolas Cornet, Pagodes/Vietnam/Pagodas, Vietnam News Agency - Publishing House, 2018, 250 trang.
Nguồn: RFI/ Thu Hằng(đăng ngày 5/2/2019)
No comments:
Post a Comment