Wednesday, March 7, 2018

Hồ Xuân Hương và những tuyệt tác văn chương - Phan Nguyên Luân


Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai. 
(Giấc mộng con của Tản Đà)


Hồ Xuân Hương con ông Hồ Phi Diễn  (1703-1786) ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh họ Hà làm vợ thứ, sinh ra Hồ Phi Mai (1772-1822), nghiã là Hoa mai bay trên hồ, bút hiệu Xuân Hương, lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, theo mẹ về gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian sau đó ở nhà giúp việc. Xuân Hương tự học thêm, nhờ thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Nguyễn Công Hòa, ở làng Tứ Xã (huyện Phong Châu, Vĩnh Phú), khi bé  tên Cóc, sau này dân làng gọi ông là Tổng Cóc. Chuyện tình của Hồ Xuân Hương với Tổng Cóc trở thành giai thoại, thân phụ của Xuân Hương là nhà giáo thời ấy gọi cụ Đố Xứ, Tổng Cóc và một số chàng trai khác chiều 30 Tết mang qùa biếu tết cụ Đồ, bị Xuân Hương ra câu đối

"Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới"

Tổng Cóc đối lại:

"Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào"

Được cụ Đồ Xứ khen hay, có thể Xuân Hương mến mộ chàng có khiếu văn chương? Tổng Cóc đã lập gia đình nhưng là người có tiếng ăn chơi, tính tình nghệ sĩ thích văn thơ cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Tổng Cóc yêu thương vợ làm cái nhà thủy tạ cho bà trông coi ao cá và bảo nàng làm thơ viết vào gỗ. Tại nơi này Hồ Xuân Hương có viết bốn câu thơ trên thân cây:

Nói đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm

Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng, không thể vượt đời sống của làng quê trọng nam khinh nữ, bởi vậy vợ chồng không tránh được việc va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến

"Đau đớn thay phận đàn bà!
Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu"

Xuân Hương bị vợ lớn ghen tương, gia đình chồng đè nén vì thân phận làm thứ thiếp. Nên bà chán ngán cảnh chồng chung bỏ nhà ra đi.

"Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong

Chẳng riêng gì Xuân Hương, thân phận của người vợ thứ trong dân gian cũng là một nỗi buồn truyền kiếp:

Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn…

Hồ Xuân Hương mở quán làm kế sinh nhai, khách hâm mộ văn tài bà đến cùng xướng họa, có nhiều chuyện tình trở thành giai thoại. Xuân Hương lãng mạn, phóng khoáng bà muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương gặp ông phủ Vĩnh Tường và làm bài thơ giã từ “khóc Tổng Cóc“.

Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

Một lần nửa Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng làm thứ thiếp, không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư:

Rằng tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình 
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai

Thời gian sống với ông phủ Vĩnh Tường, ông Phủ xem nàng là bạn văn chương. Nhưng số phận của Xuân Hương không được may mắn, cuộc tình ngắn ngủi hơn 2 năm sau phải khóc chồng, chồng chết là nỗi khổ đau nhất của người thiếu phụ, thương cho thân phận kẻ ở người đi. Xuân Hương buồn khổ trước cảnh nhà lạnh lẽo đơn côi, bà trang trải nỗi bi thương của mình trên những dòng thơ buồn não nuột, là tiếng nấc nghẹn ngào của người góa phụ vĩnh viễn xa chồng:

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ, bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!

Các tác phẩm của bà bị thất lạc, đến nay còn lưu truyền những bài thơ chữ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập, năm 1964 ông Trần Thanh Mại phát hiện thêm tập thơ chữ Hán Lưu Hương Ký viết năm Giáp Tuất (1814). Hồ Xuân Hương là nhà thơ sử dụng chữ nôm một cách điêu luyện và sắc sảo, ít người sánh kịp. Bà thường chọn những âm khó đọc để hạ vần nói lái, nghiã bóng thành những bài thơ rất tài tình và đầy thú vị trong đó ý thơ và tình thơ  bao gồm: đạo đức, tiếu lâm, hay châm biếm, độc đáo có một không hai trong văn chương bác học.

Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương có rất nhiều nghi vấn, khó xác định cảnh đời từng trải của Xuân Hương. Học giả Hoàng Xuân Hãn dẫn chứng bà có 3 đời chồng, người cuối cùng là Tham hiệp trấn -Trần Phúc Hiến.

Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến “nhất nam viết tử thập nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi học, ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí khi bà bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn:

Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài 

Hồ Xuân Hương thông minh, có tài nhưng tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ“! Đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi XH đi qua miếu Sầm Nghi Đống tại Loa Sơn, là tên Thái thú  quân nhà Thanh thua trận thắt cổ chết trên cây đa ở gò Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đề mấy câu thơ:

Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?

Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục thấy hoa đẹp ai không muốn nhìn? Bồng Đảo, Đào Nguyên là cảnh tiên, Lạch Đào Nguyên suối hoa đào đều là cái đẹp của sự sống. Từ xưa và nay nhiều nhà phê bình bàn cãi tranh luận về thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục, sinh lý bị đè nén “Libido”.Ngược laị người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng,  xem những sáng tác của Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác,  âm điệu kỳ tài. Cái đặc điểm trong thơ Xuân Hương là tả cái tục nhưng dùng toàn chữ thanh, nếu đọc bốn 4 câu thơ sau người ta hiểu tả một ông quan võ nhưng không phải vậy.

Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen

Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng? Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình vẽ, tượng điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu lại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động nét văn hóa và sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau.

So sánh Thơ Xuân Hương  với thi ca bình dân tục và thanh

Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian:

Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!

Đời sống con người được diễn tả qua thi ca trào lộng, vui cười vốn có trong thực tế không nói xa gần, hằng ngày người ta dùng cái điếu cày hút thuốc Lào, mồi đóm lửa,  kéo một hơi dài, nghe tiếng roc rách của nước…. Họ nhả những sợi khói từ từ và cảm thấy người bồng bềnh lướt nhẹ trên mây? tay mân mê xoa xoa thân điếu như người bạn thân:

Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê

Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh:
Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay 

Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác biệt, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ đèo Ngang và đèo Ba Đội sau để so sánh hai nữ sĩ:

Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Bà Huyện Thanh Quan)

Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ nhưng sống động:

Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc 
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo                                     


Thơ Hồ Xuân Hương có phong cách riêng, tiêu biểu cho thái độ tự nhiên, tình cảm tràn đầy trong sáng, thơ bà rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết tấu thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương ta cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời và phong  phú, nhưng bài viết giới hạn, tôi không thể trình bày và trích giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam.

Chữ Nôm có vai trò nổi bật trong sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân, thi sĩ mọi thời đều đã dùng chữ Hán làm thơ, viết truyện, nhưng chỉ có với chữ Nôm, người Việt mới tạo nên những tác phẩm bất hủ. Văn học Việt nam qua các thời đại, chữ Hán các tiền nhân viết những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, còn với chữ Nôm gần như các cụ chỉ làm thơ Sở trường và thành công bằng hai thể thơ giàu dân tộc tính này, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX Văn học cổ điển Việt Nam có những tác phẩm xuất sắc khiến thế giới phải biết đến là Chinh phụ Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748); Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 -1820). Chúng ta còn các tên tuổi sáng giá khác nữa từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX như: Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, đặc biệt nhất là thơ cuả Hồ Xuân Hương,  v.v. ..

Ngày nay không thể tìm mộ của bà, tuy nhiên người ta dựng bia để tưởng niệm nữ sĩ Xuân Hương

Phan Nguyên Luân 

Tài liệu tham khảo:
Nguyễn Quý Đại
Nghĩ về thơ HXH.cuả Gs Lê Trí Viễn, Ng Đức Quỳnh…
Hồ Xuân Hương toàn tập giáo sư Ngô Lãng Vân
Nhà Tây Sơn  Trần Gia Phụng NxB Non Nước Toronto 2005


No comments:

Post a Comment