Sunday, September 17, 2017

Thẩm Oánh và Ban đàn Myosotis - Jason Gibbs


Những bản đàn của Thẩm Oánh để kỷ niệm Hội chợ Hà Nội 1941



Từ 1948 đến 1950 nhạc sĩ Thẩm Oánh làm tạp chí Việt Nhạc là "cơ quan truyền bá và cổ động nền âm nhạc Việt Nam."

Ở đó có một số bạn đồng nghiệp giúp đỡ, song mục lục tạp chí chủ yếu là của Thẩm Oánh nghĩ ra. Tạp chí này đăng tên các tác phẩm sẽ phát thanh trên Đài Phát Thanh Hà Nội, có thông tin về sinh hoạt âm nhạc và có một số bài viết giải thích về âm nhạc Việt và phương tây. Thẩm Oánh cũng sọan ra một chuyện nhiều kỳ với đầu đề Nhạc Thời Gian. Ít lâu trước khi ông qua đời ngày 1 tháng 1 1996 chuyện này được in thành tiểu thuyết (Falls Church, Virginia: Minh Văn, 1995).

Nhạc Thời Gian là một chuyện tình có hai nhân vật chính là Mai và Cầm. Mai học và chơi đàn dương cầm. Du học bên Pháp về Hà Nội, Cầm chơi đàn vĩ cầm và soạn được tác phẩm cổ điển tây phương. Chuyện tình này cũng tựa vào chuyện đời của Thẩm Oánh và vợ của ông là Tô Anh Đào (hai người lấy nhau ngày 10 tháng 12 1948). Tất nhiên rất nhiều chi tiết không phản ánh đời thật của hai người này, nhưng có rất nhiều đoạn tỏ ra lý tưởng của cặp vợ chồng này về sự phát triển của một nền âm nhạc mới Việt Nam.

Hai nhân vật này rất chú ý đến vị trí của nhạc nghiêm túc ở Hà Nội. Hai người ghét cái thái độ "xướng ca vô loại" của phe cũ. Cầm cũng kêu ca rằng "nghệ thuật ở cái nước Đại Cồ Việt này chỉ là một trò chơi giải trí, cho khoái mắt, khoái tai chốc lát mà thôi." Họ tìm lý tưởng của họ trong "âm thanh thuần túy và toàn mỹ trong nguồn cổ nhạc Tây phương." Cầm và Mai muốn âm nhạc Việt được có giá trị cao sang hơn, như vị trí quốc tế của nhạc cổ điển tây phương.

Mục đích của công trình quốc gia chủ nghĩa này là tạo điều kiện cho nền nhạc Việt được coi như ngang hàng với tinh hoa của nhạc quốc tế. Nhưng Cầm và Mai cũng muốn nâng lên và cải tiến đời sống tinh thần của đồng bào họ. Một quan niệm như thế cũng phù hợp với thẩm mỹ của nền nhạc truyền thống Việt Nam. Cảm xúc và cảm tình có vai trò rất quan trọng trong nhạc cổ truyền.

Khi còn trẻ, Thẩm Oánh và Tô Anh Đào đều học nhạc Việt cổ truyền. Nhưng với thế hệ trẻ lúc bấy giờ nhạc cổ bị hạn chế và không phản ánh cảm xúc của người hiện đại cho đủ. Thẩm Oánh mô tả tác phẩm Bản nhạc không lời số 4 của nhạc sĩ Cầm với một bão tố diễn cảm như sau:

Bản đàn lướt đi từng hơi một, thầm thì to nhỏ như người ngồi kể lể tâm sự u buồn… Cung mạch uyển chuyển nhịp điệu dễ dàng như lời kể chuyện của người tốt giọng có duyên. Tới đoạn giữa nhạc diễn tả nối bâng khuâng mong nhớ, điểm qua vài nết buồn dìu dịu và đến đoạn kết thì ngân vang lên, say đắm, sáng lạn và rực rớ như cương quyết ca khúc khải hoàn.

Nhạc tưởng tượng này rất là đa cảm! Trong nhạc cổ truyền, các nghệ sĩ theo một làn điệu bày tỏ một cảm xúc. Các hơi, các điệu với cách rung và luyến láy cũng biểu tỏ cảm xúc sâu xa với một người sành sỏi về nhạc cổ. Song nhạc tây thực sự là nhạc muôn điệu, và đàn dương cầm cũng là cung đàn muôn điệu có khả năng hòa âm, chơi to và nhỏ, cao và trầm.


Giai đoạn khởi đầu của nền âm nhạc mới Việt Nam hiện giờ được biết bằng tên gọi "nhạc tiền chiến." Âm nhạc ở Việt Nam được cải cách muộn hơn các loại nghệ thuật khác như hội họa, văn chương và kiến trúc. Trong những năm 1920, 1930, nhờ sự đô thị hóa, kỹ nghệ hoá ở nước mình, người Việt bắt đầu đón luồng âm nhạc xa lạ và mới mẻ của phương tây. Nhạc tây được coi trọng bởi cách ký âm, nghệ thuật hòa âm và phối âm, và bởi các nghệ sĩ được rèn luyện theo một hệ thống trọn vẹn và chuyên nghiệp. Còn nhạc tây có sức sáng tạo nữa và sự đổi mới rất được hoan nghênh. Vì các lý do ấy nhạc tây được coi như sang trọng hơn, lịch sự hơn âm nhạc bản xứ. Đứng trước hệ thống nhạc ngoài thì nhiều người Việt nghĩ là phải xây lại nền nhạc của mình.

Để có một nền âm nhạc thì nhất thiết phải xây dựng cơ sở. Không chỉ phải đào tạo các nghệ sĩ biểu diễn, các nhạc sĩ sáng tác mà lại cũng phải làm nên một môi trường âm nhạc - phải có một nền giáo dục, các cơ quan tổ chức, một quần chúng đủ trình độ hiểu biết và thưởng thức nền âm nhạc mới ấy. Thẩm Oánh là một người có đóng góp lớn cho cơ sở của nền tân nhạc này. Trong đoạn thời gian tiền chiến ông sáng tác rất nhiều tác phẩm. Ông cũng tổ chức các buổi hòa nhạc và các lớp dạy âm nhạc.

Thẩm Ngọc Oánh (tên đầy đủ) được sinh năm 1916. Dù là phật tử ông từng học ở trường École Puginier của dòng Lasan Thiên Chúa Đạo. Các trường dòng nhấn mạnh việc học nhạc để được tham gia lễ. Ông được các cha đặt tên Joseph và hát ở hợp xướng của nhà thờ. Được giáo dục như thế thì chắc Thẩm Oánh được một trình độ nhạc tây khá vững chắc và từ độ năm 1934 ông dạy nhạc tại các ngôi trường ở Hà Nội. Ông cũng đăng vài bài trên tờ báo Đông Phương năm 1936 giải thích phương pháp làm các "bài hát ta điệu tây" (phổ lời Việt cho các bài ca phổ thông Pháp).

Vài năm sau Thẩm Oánh và một số thanh niên bắt đâu mày mò nghĩ đến việc tự soạn các nhạc phẩm theo phương pháp phương tây. Lúc bấy giờ nhạc mới của người Việt chưa có chỗ đứng trong đời sống văn hóa Việt Nam. Các nhạc sĩ tương lai đó nghe nhạc tây phương và tự đánh giá mình còn kém. Nền âm nhạc mới rất cần đến một phòng thí nghiệm để nâng đỡ một loại nghệ thuật phù hợp với thính giả người Việt.

Phòng thí nghiệm ấy với Thẩm Oánh và bạn bè của ông là phong trào "Salon" đang thịnh hành ở các thành phố Việt Nam. Salon nghĩa đơn giản là phòng khách. Vài thế kỷ trước ở Pháp các đàn bà cao quý mở ra nhà của mình để tạo điều kiện cho giới trí thức được trao đổi với nhau một cách rất tình cảm. Mặc dù phong trào có nữ tính ít hay nhiều, cái điều kiện quan trọng của phòng salon là phải làm nên một không khí lịch sự và sang trọng. Những người tụ họp ở các buổi salon hay bàn bạc về văn chương và văn hóa.

Khi diễn thuyết về nguồn của tân nhạc trong những năm sau, Thẩm Oánh hay nhớ lại vai trò quan trọng của phong trào Salon ở Hà Nội lúc bấy giờ. Đó là quãng thời gian phôi thai của ban nhạc Myosotis. Dương Thiệu Tước là bạn thân của Thẩm Oánh cũng cộng tác không ngừng trong việc này. Ông viết rằng nhờ các salon thì ban nhạc này "có thể thi thố tài năng trước một số thính giả mộ điệu thân mật." Ông nhắc "Từng nửa tháng một, phái nam nữ cấp tiến ưa chủ trương mời khách để phiêm luận văn chương bình luận thi ca hoặc hòa nhạc." Theo ông thì họ chọn tên Myosotis vì ý nghĩa tiếng Anh của hoa myosotis (lưu ly) là "forget-me-not" tức "đừng quên ta." Người trong ban nhạc "đã có một cao vọng là sau khi trình diễn thính già sẽ không quên họ vì lối trình bày cẩn thận, chắc chắn của họ."

Ban Myosotis tự coi mình là một ban nhạc tài tử. Chữ tài tử rất đúng ở đây - họ làm nhạc để tự trao dồi cho mình, để thử sức và tìm hiểu về một loại nghệ thuật mới và để hiểu biết khả năng đón nhận nghệ thuật của một số khán giả đồng cảm với mình. Nhạc này được phát triển trong khung cảnh mật thiết và đầy tình cảm.

Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước nhấn mạnh vai trò riêng của một Salon ở biệt thư 164 phố Huế là nhà của Tô Anh Đào. Tô Anh Đào sinh năm 1920 lúc bấy giờ đang học đàn dương cầm với bà Yvonne Périé ở Institute Musical de Hanoi (Viện Âm Nhạc Hà Nội). Bà Périé là con gái nuôi của Albert Poincignon - người đã từng thành lập Conservatoire Français d'Extrême-Orient (Nhạc Viện Pháp Đông Dương) trong những năm cuối thập niên 1920. Lớn lên Tô Anh Đào từng học đàn tranh, nhưng khi lên 8 tuổi bố của bà mua một đàn dương cầm và bà bắt đầu học nhạc cổ điển tây phương. Theo Dương Thiệu Tước thì Tô Anh Đào khi đó mới 17 tuổi có đúng tiêu chuẩn "chủ" salon là "người, không những có học thức, mà lại quen rộng, biết nhiều; nhất là tính tình khả ái, gây được nhiều thiện cảm đối với Văn nghệ sĩ, mới mong được họ năng lui tới."

Tô Anh Đào đã kể cho tôi nghe rằng ban nhạc Myosotis của Salon gồm:
  • Thẩm Oánh, đàn mandolin và hát
  • Cô Thục, đàn ghi ta và hát
  • Phan Thị Thanh, hát
  • Cô Phụng, hát
  • Tô Anh Đào, dương cầm
  • Dương Thiệu Tước, đàn ghi ta espagnole và hạ uy di
  • Vũ Khánh, vĩ cầm
  • Nguyễn Trần Dư - vĩ cầm
  • Đoàn Văn An, vĩ cầm
Phòng Salon là môi trường có nữ tính, vậy cũng có sự tham gia một số thanh thiếu nữ. Những người trong ban nhạc có xu hướng nhạc cổ điển tây phương. Vũ Khánh và Trần Dư từng học vĩ cầm với bà Sylvie Durand (chắc Đoàn Văn An cũng học với bà là vợ của nhà ngôn ngữ học Maurice Durand). Dương Thiệu Tước cũng được học dương cầm với bà Périé, rồi khi lên 16 chuyển học đàn ghi ta kiểu cổ điển. Dù Thẩm Oánh đã chơi đàn mandolin trong ban Myosotis, nhưng trình độ chơi của ông không được khá mấy. Tài năng của Thẩm Oánh là xướng âm pháp, vậy chắc ông hát cũng hay.

Mặc dù ban nhạc Myosotis gồm những tài tử được đào tạo theo nhạc cổ điển tây phương, nhưng lúc bấy giờ nhạc khiêu vũ rất thịnh hành với giới trẻ Hà Nội.


Trong một bài viết Thẩm Oánh nhắc rằng "Tại Hà Nội, đâu đâu cũng thấy ca theo giọng Tino Rossi; tiếng đàn mandoline, banjo, guitare văng vẳng trong mọi thư phòng, gác trọ." (Tino Rossi là một ca sĩ giọng tenor và tài tử chiếu bóng rất được ái mộ trong giới nói tiếng Pháp những năm cuối thập niên 1930). Trong giới của ông mỗi người "say mê đàn ca nhịp điệu vũ Tây phương."

Tô Anh Đào được làm quen với Thẩm Oánh tại buổi dạ vũ của bố bà tổ chức ở nhà bà. Tô Lan Khoa, bố của Tô Anh Đào, có tính nghệ sĩ khuyến khích sự tham vọng nghệ thuật của con gái mình. Các bạn tham gia salon của Tô Anh Đào thường gặp nhau ở nhà hay đi chơi ở các chùa gần Hà Nội như chùa Láng và chùa Trầm. Họ đem đồ ăn theo để để ăn ngoài trời (faire un pique-nique) và cũng vác đàn theo và chơi nhạc ở vùng đồng quê. Họ chưa biểu diễn trước quần chúng nhưng lại chơi và hát cho nhau nghe.

Khi bắt đầu chơi nhạc với nhau các bạn tập các ca khúc Pháp phổ thông. Thẩm Oánh kể:
Mấy tài tử ấy mỗi tuần lễ đôi lần, tập dượt đàn rất đều và rất chăm chỉ. Những bản đàn mà họ chơi đầu tiên là những bài hát thịnh hành thời bấy giờ. Song một vài tài tử trong ban đàn đó đã có sáng kiến tự soạn lấy bài để cho ban nhạc chơi.

Dần dần hai thành viện Thẩm Oánh và Dương Thiệu bắt đầu tự soạn những giai điệu. Sau một thời gian, Thẩm Bích là anh của Thẩm Oánh, soạn lời Pháp cho một số giai điệu của Dương Thiệu Tước và Thẩm Oánh tự soạn những giai điệu của mình.

Đây là ban đàn Myosotis "nội bộ." Có thêm một ban nhạc Myosotis công cộng gồm Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Vũ Khánh, Nguyễn Trần Dư với thêm hai nhạc sĩ nữa là Nguyễn Thiện Tơ (ghi ta, ghi ta hạ uy di, đàn banjo) và Nguyễn Trí Nhường (sax và cello). Ban nhạc này ra mắt quần chúng lần đầu ngày 13 tháng 9 1938 tại rạp Olympia tham gia một chương trình chiếu phim L'Extravagant (tức The Plainsman - Người đồng bàng) "để giúp quỹ Đoàn Ánh Sáng" - một tổ chức thiện xây nhà cho dân nghèo lúc bấy giờ (gọi là "nhà rẻ tiền"). Quảng cáo trên trang tạp chí Ngày Nay ngày 11 tháng 9 1938 của buổi này đăng thông tin "ban âm nhạc MYOSOTIS họa những bài đàn mới soạn, rất hay."

Đêm ấy ban đàn Myosotis biểu diễn bốn ca khúc là "Trong đêm thâu" và "Khúc yêu đương" của Thẩm Oánh, "Souvenance" (Hồi niệm) và "Joie d'aimer" (Thú yêu đương) của Dương Thiệu Tước (lời Thẩm Bích). Trong trí tưởng tượng của tôi, nếu quay về quá khứ nghe lại chương trình này thì chắc là ban nhạc này nghe rất đơn sơ. Theo Nguyễn Thiện Tơ các ca khúc cải biên chỉ có hai, ba bè.

Trong bốn nhạc phẩm được biểu diễn đêm đó chỉ còn bài "Khúc yêu đương" tồn tại trên trang tạp chí Ngày Nay. Lời bài tình ca này rất hay. Thuyền bị nước giật, vậy nên có người lái. Thẩm Oánh mô tả các mùa và cảnh thiên nhiên để tỏ tình. Người tình đang trong những "ngày xuân." Hãy yêu đi trước khi ngày xuân hết. Song phần nhạc chưa được vững chắc lắm. Theo quy luật nhạc phổ thông, các câu nhạc nên có con số ô nhịp như 8 hay 12. Câu đầu của "Khúc yêu đương" có 9 ô nhịp và câu thứ hai có 11 ô nhịp. Các đoạn cuối ("Bên em một ngày…") như một điệp khúc được viết đều và có mô-típ dễ thuộc.

Ban đàn Myosotis hoạt động thường xuyên đến năm 1940. Họ biểu diễn trên sân khấu các rạp Olympia, Majestic, Palace cho các tổ chức xã hội như Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, Hội Thể Dục Bắc Việt và hội Đông Dương Công Chức Thể Thao. Thường lệ thì họ chơi nhạc 30 phút trước khi phim được chiếu. Ngày 7 tháng 1 1940 báo Đông Pháp quảng cáo rằng trước khi chiếu phim Mater Dolorosa ban Myosotis biểu diễn các bài hát mới của Thẩm Oánh với hợp xướng École Duvillier để giúp quỹ Hội Ánh Sáng.

Ban Myosotis từng biểu diễn các ca khúc mới như "Đời oanh vàng," "Hoa tàn," "Phút vui xưa," "Hồ xưa," và "Xuân về" của Thẩm Oánh, "Một ngày mà thôi," và "Tâm hồn anh tìm em" của Dương Thiệu Tước. Trong thời gian ấy Thẩm Oánh cũng bắt đầu in những tác phẩm của mình. Ông in "Mon rêve" (một bản tango, lời của "X") năm 1938. Ông cũng xác nhận ca khúc "Đôi oanh vàng" của ông là tơ bản nhạc cải cách Việt Nam đầu tiên được xuất bản năm 1939.

Nhắc về các ấn phẩm của Myosotis, Dương Thiệu Tước đã viết rằng họ chỉ in loạt độ 200 bản. Phải đợi ba, bốn năm thì mới bán hết. Tôi không biết còn ai giữ được tơ bản nhạc của Myosotis xuất bản?
Ban Myosotis chỉ được sinh hoạt từ 1937 đến 1940. Sau đó Thẩm Oánh vẫn sáng tác và tự xuất bản nhiều. Ông cũng tự nhận thiếu sót của "loại bài sản xuất trong thời đầu tiên có âm điệu lững lơ, mà ta có thể gọi là 'âm điệu lai căng.'" Nhưng một phong trào được khởi đầu. Thẩm Oánh cũng cho biết một lý do là thế hệ trẻ ở Hà Nội lúc bấy giờ "rất ham chuộng sự mới lạ ấy." Ông cũng nhắc: "Thanh niên hiểu nhạc rất hoan nghênh loại nhạc mới này, nao nức đòi hỏi xin nguyên bản để đàn ca; phong trào vừa chớm nở tực không ngờ đã lượm được kết quả đáng gọi là mỹ mẫn."

Mặc dù phong trào nhạc mới rất thành công, các ca khúc của Thẩm Oánh và ban Myosotis không được phổ biên lâu năm. Trong bìa sau một bài ca tự xuất bản năm 1941, chỉ có riêng một tác phẩm được in lại trong những năm 1954 là "Xuân về" của Nhà xuất bản Tinh Hoa in năm 1954.

Theo Thẩm Oánh, thời của ban Myosotis là giai đoạn "mơ mộng" của nền âm nhạc Việt mới. Ông sáng tác tiếp trong các giai đoạn "lịch sử, thanh niên và trẻ em" (1941) và giai đoạn "hùng ca" (1944) theo cách phân loại của ông. Cùng thời Thẩm Oánh tham gia Hội Khuyến Nhạc Bắc Việt là một hội tổ chức lớp nhạc ở các nơi công cộng ở Hà Nội. Họ dạy ca hát và các đàn tây phổ thông như dương cầm, vĩ cầm, và xướng âm pháp. Năm 1941 ông diễn thuyết lần đầu tại tại Hội Trí Tri về chủ đề "Âm nhạc cải cách Việt Nam" để nâng đỡ nghệ thuật mới mẻ này.

Năm 1945 theo Thẩn Oánh là giai đoạn nhạc cách mạng, nhưng ông không viết nhạc cách mạng. Lúc lính Nhật lật đổ chính phủ Pháp và lập ra Đế Quốc Việt Nam của Trần Trọng Kim làm Thủ Tướng, Thẩm Oánh sáng tác hành khúc "Việt Nam phục quốc." Mặc dù được Ban Âm Nhạc Vệ Quốc Quân của Đinh Ngọc Liên biểu diễn, nhưng theo nhạc sư Lê Hoàng Long tác phẩm này bị coi như "yếu đuối" và "ủy mị."

Năm 1946, Thẩm Oánh nhận chức Thư ký và Tô Anh Đào nhận chức Thủ quỹ cho Đoàn Âm Nhạc của Hội Văn Hóa Cứu Quốc Việt Nam là cơ quan lập ra Trung Ương Nhạc Viện Việt Nam của Lưu Quang Duyệt làm giám đốc. Vì chiến tranh bụng nổ cuối năm ấy, trường này chỉ tồn tại một thời gian quá ngắn ngủi. Cuối năm ấy, Thẩm Oánh ở lại thủ đô trong trận Hà Nội. Sau hiệp định Bollaert-Nguyễn Văn Xuân được kỳ ngày 5 tháng 6 1948, Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam được lập ra ở các vùng dưới quyền hành của quân đội Pháp. Từ tháng 7 bộ trưởng Bộ Thông Tin là Phan Huy Đán tìm đến Thẩm Oánh để giúp lập ra một ban âm nhạc của Đài Phát Thanh Quốc Gia là Ban Việt Nhạc. Theo Thẩm Oánh: "Thế là âm nhạc lần đầu được Chính Phủ Quốc gia nâng đỡ và công nhận, cho tới ngày nay… và mong sẽ còn được khuyếch trương để trường tồn mãi mãi."

Ban Việt Nhạc là một bước đi lớn trên đường chuyên nghiệp hóa nhạc mới Việt Nam. Ba thành viên của ban Myosotis, Nguyễn Thiện Tơ, Nguyễn Trí Nhường và Vũ Khánh, cũng làm việc cho ban nhạc này. Vốn tiết mục của ban nhạc này giúp các người yêu nhạc được tìm hiểu và đánh giá các tác phẩm, góc phần giúp có tác phẩm thời tiền chiến ấy được "vượt thời gian." Tạp chí Việt Nhạc gửi lời yêu cầu các nhạc sĩ Việt Nam đưa tác phẩm của mình cho Ban Việt Nhạc biểu diễn trên làn sóng. Ban đàn Việt Nhạc trình bày nhiều loại nhạc phẩm, kể cả thanh nhạc, khí nhạc, nhạc cổ điển, nhạc Thiên Chúa giáo, và nhạc Phật giáo. Họ cũng biểu diễn các bài hát cách mạng của Văn Cao, Phanh Hùynh Điểu, và Đỗ Nhuận cùng với những bài ca gửi từ vùng kháng chiến của Phạm Duy, Việt Lang, Tử Phác và Lương Ngọc Trác.

Trong các bài ông viết cho tạp chí Việt Nhạc, Thẩm Oánh luôn luôn cố gắng nâng lên sự hiểu biết về nhạc Việt. Trong số đầu của tạp chí ấy ông soạn bài "Huấn luyện âm nhạc cho đại chúng." Một thời gian sau ông viết về việc tạo lập một "Hội Chủ Quyền tác giả âm nhạc Việt Nam" (nhưng việc này không thành công). Ông viết các bài về "danh từ âm nhạc" để tìm thuật ngữ vững chắc cho các người học về nhạc Việt. Ông cũng đọc những bài thuyết trình về văn hóa trên làn sóng đài phát thanh.

Vì ông là viên chức của nhà nước Nguyễn Văn Xuân và Bảo Đại, Thẩm Oánh sẽ thấy khó sống và sinh hoạt trong nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau 1954. Tô Vũ kể với tôi, khi từ vùng kháng chiến về năm 1954 ông đến nghe một chương trình ca nhạc ở Hà Nội do Thẩm Oánh tổ chức. Theo kế hoạch ban nhạc sẽ biểu diễn ca khúc "Em đến thăm anh một chiều mưa" của Tô Vũ, một bài ca lãng mạn không còn được hát ở vùng Việt Minh. Bạn của Tô Vũ là Nguyễn Bách của sở Văn Hóa Hà Nội cũng đến dự và lo đến danh tiếng của bạn mình, như vậy thì áp dụng quyền lực của mình để phá vỡ chương trình này. Theo Tô Vũ, Thẩm Oánh thấy khó chịu và quyết định đi vào miền Nam. Trong sách Operation Passage to Freedom: The United States Navy in Vietnam,1954-1955 (Chiến dịch Chuyến tìm tự do: Hải quân Mỹ ở Việt Nam, 1954-1955) của giáo sư Ronald Bruce Frankum viết năm 2007, Thẩm Oánh là giám đốc của Đài Phát Thanh Hà Nội nói đã bị Việt Minh dọa và đã yêu cầu được sơ tán ngay vào Sài Gòn.

Khi vào Nam, Thẩm Oánh thành một công chức của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa của Ngô Đình Diệm. Một thời gian ông phụ trách việc kiểm duyệt của Nha Vô Tuyến Truyền Thanh. Ông làm giám đốc của Trường Ca Vũ Nhạc Phổ Nhạc Thông (1956-58) cũng dạy xướng âm pháp và nhạc lý tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc Và Kịch Nghệ Sài Gòn. Thẩm Oánh là một trong 11 người đại diện cho nước Việt Nam Cộng Hòa tham gia The First Regional Music Conference of Southeast Asia (Hội thảo Âm nhạc Khu vực của Đông Nam Á) tổ chức từ 29 đến 31 tháng 8 1955 tại Manila, Phi Luật Tân. Hội thảo này được sự bảo trợ của UNESCO và The International Music Council (Hội Nghị Âm Nhạc Quốc Tế) của UNESCO. Được giới thiệu là một "'professor of musicology' at Saigon University" (giáo sư âm nhạc học của Đại học Sài Gòn). Thẩm Oánh phát biểu về "Musical Development in Vietnam" (tức Sức tiến triển của nền âm nhạc Việt Nam).

Sau 1954 Thẩm Oánh sáng tác ít và chỉ viết cho bạn bè. Hình như ông không thấy phù hợp với âm nhạc thị trường đang thịnh vượng ở Sài Gòn lúc bấy giờ. Sau 1975 ông dạy tiếng Pháp một thời gian rồi  ông nhập cư nước Mỹ năm 1995.

Như nhân vật Cầm trong Nhạc thời gian, Thẩm Oánh luôn mải miết nâng đỡ nền âm nhạc Việt cho được tiến triển tốt. Ông chủ trương cho một luồng âm nhạc "thuần túy," tức là theo kiểu thẩm mỹ của nhạc cổ điển tây phương. Ông làm việc này vì có ích cho ông và các bạn ông là một điều dĩ nhiên, nhưng trước hết ông nghĩ đến vai trò của âm nhạc trong đời sống tinh thần của người Việt. Điều đáng tiếc cho ông là các tác phẩm của ông không được quần chúng hưởng ứng nhiều.

Nhưng dù sao đi nữa, các việc của Thẩm Oánh làm đã được góp phần xây lên nền âm nhạc Việt của ngảy hôm nay. Ông giúp nuôi dưỡng một môi trường cho nhạc mới được đón nhận và cũng tạo điều kiện cho nhiều nhạc sĩ và nghệ sĩ sau được thể hiện nghê thuật của mình. Thực ra cơ sở mà Thẩm Oánh xây lên là gốc của thể loại âm nhạc được gọi là nhạc tiền chiến, và nhạc này đã gây ảnh hưởng rất lớn với các nhạc sỹ Việt Nam soạn những tác phẩm trữ tình có giá trị. Mặc dù các tác phẩm của ông không được biết đến nhiều hiện nay, nhưng mỗi người yêu nhạc Việt được hưởng kết quả các việc ông làm để làm cho nhạc Việt được cải cách.

Jason Gibbs (viết cho BBC Tiếng Việt đăng ngày 18/4/2017 )

Ông Jason Gibbs có bằng tiến sĩ về Lý thuyết và Sáng tác âm nhạc từ Đại học Pittsburgh, chuyên nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Bài viết gửi BBC được ông viết trực tiếp bằng tiếng Việt, là bài hai của loạt bài về các gương mặt nhạc sĩ Việt Nam.

No comments:

Post a Comment