Monday, February 1, 2016

Lịch Sử Phật Giáo Tại Nga


 
Nga hiện nay là một nước cộng hoà, diện tích 17,075,400km2, dân số 142 triệu người. Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo và Phật giáo là các tôn giáo truyền thống của Nga, được cho là một phần của "di sản lịch sử" Nga trong một điều luật được thông qua năm 1997. Con số thống kê ở Nga không chính xác. Số người vô thần ở Nga là 16–48% dân số. Chính thống giáo Nga là tôn giáo thống trị ở Nga 95% dân số. Các tôn giáo khác thì nhỏ hơn như Công giáo La mã, và nhiều phái Tin Lành. Người Nga chấp nhận Cơ Đốc giáo Chính thống ở thế kỷ thứ 10. Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2007 do Bộ ngoại giao Mỹ xuất bản đã nói rằng có xấp xỉ 100 triệu công dân coi họ là tín đồ Giáo hội Chính thống Nga.
Theo một cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Ý kiến Công chúng Nga: 
  • 63% người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga
  • 6% tự coi mình là tín đồ Hồi giáo và 
  • chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo La Mã, Tin lành hay Do Thái giáo. 
Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu tín đồ Hồi giáo. Tuy nhiên học giả Hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền Roman Silantyev đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga.. Phật giáo là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: Buryatia, Tuva, và Kalmykia.  
Nga là một quốc gia rộng lớn và có những vùng khác nhau. Về Phật giáo thì Phật giáo Tây Tạng mạnh nhất. Phật gáo Tây Tạng qua Mông cổ rồi vào đất Nga. Cũng có thuyết nói rằng khi quân Mông Cổ xâm lăng Tây Tạng thế kỷ 13nên đã thâu thaíi Phật giáo Tây Tạng. Sau đó, Phật giáo các nước theo di dân mà nhập vào Nga như Triều Tiên, Trung Quớc Việt Nam, Nhật bản. 

Về phương diện Phật giáo, chúng ta có thể chia làm ba vùng chính đó là:
(sưu tầm)

No comments:

Post a Comment