Friday, January 6, 2017

Năm Đinh Dậu 2017 : Đọc Kinh Kê (1902) của Tả Quân Lê Văn Duyệt


Tả Quân Lê Văn Duyệt (1763  - 1832) là một nhà chính trị, quân sự Việt Nam. Ông được biết đến khi tham gia phò tá chúa Nguyễn Ánh, trong cuộc chiến của ông này với quân Tây Sơn. Sau khi chiến tranh kết thúc và Nhà Nguyễn được thành lập, ông trở thành một vị quan cấp cao trong triều đình và phục vụ hai triều vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) và Minh Mạng.

Sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo ở gần Tiền Giang, Lê Văn Duyệt gia nhập quân đội của Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn từ năm 1781. Bởi tài năng quân sự của mình, Lê Văn Duyệt nhanh chóng thăng tiến trong hàng ngũ của quân Nguyễn tới chức chỉ huy Tả quân vào thời điểm cuộc chiến kết thúc. Sau khi nhà Nguyễn thành lập, ông trở thành một vị quan, tướng quân giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình; nhiều lần công cán ở cả phía Bắc Thành và hai lần được cử làm Tổng trấn Gia Định.

Việc cai trị của ông đã góp công lớn giúp ổn định và phát triển khu vực Nam Bộ Việt Nam, khiến cho vùng này từ một khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh thành một khu vực bình yên và giàu có. Thêm vào đó, Lê Văn Duyệt phản đối việc nối ngôi của vua Minh Mạng và bảo vệ các tín đồ Công giáo Việt Nam khỏi chính sách bế quan tỏa cảng và trọng Nho giáo của nhà vua. Những việc này đã khiến ông thường xuyên xung đột với nhà vua và dẫn đến việc triều đình đã hạch tội và cho phá hoại lăng mộ sau khi Lê Văn Duyệt mất. Vì việc này, người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi đã nổi dậy chống lại triều đình. Sau khi cuộc nổi dậy bị dập tắt, Lê Văn Duyệt tiếp tục bị truy tội đến mãi đời Thiệu Trị thì vụ án mới được xét lại, và ông mới được phục hồi danh dự.

Đây là bản Kê Kinh được đăng trên báo Nông cổ mín đàm, 1902.
Có ít nhất là hai bản Kê Kinh với nội dung khác nhau chút đỉnh.
Theo nhiều tài liệu thì tác giả của Kê Kinh chính là Tả Quân Lê Văn Duyệt. (1763-1832 )

Trời xuân nương ngọn đèn hoa,
Thừa nhân xem thấy sách gà Phạm Công
Dạy răn chẳng sót mảy lông,
Từ đây mới hãn phép trong rất mầu.

Trước phân văn võ làm đầu,
Kim, mộc, thủy, hoả, thổ hầu phân minh.
Ngũ thể là ứng ngũ hành
Tương sanh, tương khắc cho đành can chi.

Hình công, hình phụng, hình qui,
Cần trên cần dưới coi thì cho thông.
Lại tường từ cái thép lông,
Hạt mao trước võ phẩm đồng phước kê.

Gặp gà võ thử nên ghê,
Tượng mao viên phát ai hề dám đương.
Bất câu ô, xám, ó, vàng.
Một mình năm sắc rõ ràng gồm văn.

Lông đuôi mà có quầng trăng,
Mã dài chí gối thiệt là tước linh.
Cánh lông trổ chín lưu tinh,
Hai bên mười tám tài tình xiết bao.

Thuần văn thuần võ làm sao,
Văn pha võ lộn dường nào vẽ cho ?
Mã kim nhỏ nhẻ không to,
Lông ngời cho ướt thiệt đồ thuần văn.

Lá tre to trọi hai phần,
Sắc không khô ướt nó rằng văn pha.
Thép lông thuần võ kể ra.
Màu khô mã lại ấy là võ tinh.

Lại mã dài ướt hoà mình,
Võ pha là thế phải nhìn mà phân.
Sắc lông bày tỏ ân cần,
Lỡ văn lỡ võ sao rằng lỡ pha.

Mồng co, mồng lái văn hòa,
Mồng chóc, mồng trập danh là võ quan,
Mồng khe, mồng trích rõ ràng văn pha.
Ðầu mình đã tỏ gần xa,
Sau này ta sẽ bảo mà bộ chơn.

Sao rằng văn giáp danh xưng,
Sao rằng võ giá rằng thuần rằng pha ?
Bất câu xanh, xám, trắng, ngà,
Ðường đất cho nhỏ, vảy mà cho trơn.

Ngón dài thắt nhỏ thời hơn,
Cựa kim đóng thấp ấy chơn văn thuần.

Khai mương vảy dóng khô vi,
Chơn như gà chết võ thuần chẳng sai.

Còn như đại giáp bài khai,
Ðường đất sợi chỉ thiệt tài văn pha.

Chơn dầu vảy cọp tỏ ra,
Ðường đất thô lớn ấy là võ xen.

Cựa mà có đóng trong huyền,
Nhọn cũng như buá võ tuyền vậy vay.

Cựa đao hoặc lớn mà ngay,
Thấy thời cho biết nó rày võ pha.

Văn thuần ăn võ thuần mà,
Võ thuần ăn đặng văn pha rất mầu.

Văn pha với võ địch nhau,
Thắng vì nhờ vảy ai hầu hơn ai.

Vảy lông trái thế một hai,
Kém vảy bổn mạng dễ nài đứng lâu.

Phải tường bổn mạng ở đâu,
Cứ vảy ngón giữa kể hầu chẳng sai.

Hai mươi hai vảy sấp ngoài,
Mười bảy mười tám thường tài thiếu chi.

Vảy độ cứ xuống mà suy,
Ðừng cho núng dập phải ghi vào lòng.

Hậu cước liên lộ song song,
Vảy thời trên cán cho thông một đường.

Ðừng cho nát nẩm loạn hàng,
Ðứng càng lâu nước, lại càng đá năng.
Vảy hậu một đàng thẳng băng,
No nê khỏi cựa mới rằng bền cho.

Dầu mà khai hậu nhỏ to,
Phía bên vấn cán chẳng lo chút nào.
Phép vảy không kể xiết bao,
Thương người lầm lỗi phải trao tâm truyền.

Cho tường là vảy tam truyền,
Cho tường là vảy chướng thiên chỗ nào.

Câu loan tình trạng làm sao,
Ngư lân, yến nguyệt tài cao thế gì,
Ba hàng rốt chậu vảy qui,
Hoành hoành chỉ địa ai thời dám đương.

Châu giáp, huyền giáp phải tường,
Châu hơn đã hãn huyền nhường lại châu.

Nhựt thần vảy đóng ở đâu,
Ðóng mà ngang cựa để hầu phòng thương.

Lạc mai giáp đóng phi thường,
Hoặc bày dưới cựa hoặc tường lên trên.

Khai vương giữa chậu hoặc bên,
Chẳng sớm thời muộn chẳng quên đòn tài.

Hai hàng dầu cách dặm dài,
Nhứt cách nhứt chiếu quầng hoài phải kiêng.

Long ẩn mà có ẩn huyền,
Nước ba thời thấy đá phiên một đòn.

Cao nào ngón giữa ẩn son,
Qua khuya một chút chúng lòn chạy ngang.

Bạch giáp hoa hồng ai tày,
Ðá hầu một nước chơn rày như son.

Suất châu ba giáp sổ tròn,
Ai chịu cho nổi ba đòn Từ cung.

Sát chậu một vấn bít bồng,
Ðá xen đá bại anh hùng phải kinh.

Bát chỉ nhơn tự gá danh,
Ðôi chơn nhựt nguyệt anh linh chẳng vừa.

Hổ đầu ngón giữa chẳng chừa,
Ðá sơ chẳng chết cũng ngơ ngẩn đầu.

Liên giáp vảy ấy thiếu đâu,
Ðóng mà ngang cựa ai nào dám trông.

Ðã phần phép giáp phép lông,
Lại dạy một phép cho thông lựa gà.

Ăn thua vì bởi người ta,
Gà hay thất cách ắt là phải thua,
Hiệp cách dầu mấy cũng mua,
Thất cách đem tới mà cho chẳng màng.

Chẳng lựa ô, tía, xám, vàng,
Mã nhỏ mà ướt lượng toan lượng tào.
Cổ cần đoạn một liên nhau,
Mỏ xuôi, mình phụng, mồng dâu, mình dài.

Hai vai cánh thiệt hai vai,
Vảy đóng cho mỏng chơn dày phân ba.

Ngón dài nhỏ thắt tằm nga,
Ðường đất như chỉ đóng sà cựa kim.

Cần tròn hay lận hay lanh,
Ðùi thời đùi ếch mắt thêm hoả tròng.

Cằm thời cho khít làm song,
Sâu lườn xương rộng sức trong như thần.

Cho hay là thể thuần văn,
Ðịch cùng võ thể mười phần toàn công.

Con nào đầu lớn khô lông,
Mình mà tròn tượng, chơn phồng phân hai.

Vảy mang ngón chẳng đặng dài,
Mồng chóc mã lại dưới hai cựa tròn,
Mắt thời lớn loả ngoài khuôn,
Vảy thời to kịch hình dung võ toàn,
Ðá thời động địa kinh thiên,
Sánh cùng căn thể thủ thành đặng đâu.

Thuần văn thuần võ dạy đầu,
Văn pha võ lộn sau hầu biện phân.

Hỡi xin giữ dạ ân cần,
Từng chơi biện đặng, phải từng xét suy.

Dạy cho đủ trạng gà kỳ,
Thủ vĩ tương cận thấy thì phải kiêng.

Danh là gà thể triều thiên
Cổ trên cất đứng, đuôi liền cúi cung.
Hình như phụng võ phong trung,
Phép gà cho gã anh hùng không hai.
Mồng rồng mà ngón lại dài,
Chơn dầu hèn xấu danh ai dám đồn.

Con nào gối chí hậu môn,
Hình như Lữ Vọng câu buông Vị hà,
Một đời cho nhẫn đến già,
Mỗi trường mỗi cậy, tài mà đòn sau.

Gà tréo tay trói càng mầu,
Tài hay sanh sát gẫm âu khác thường.
Gà nào chơn đóng hai hàng,
Về tên ngang cựa đâm càng nên ghê.

Coi gà biến hoá nhiều bề,
Ðành rằng sanh khắc chớ hề mạng chi.

Tại mình coi chẳng hay suy,
Có thua rồi trách, trách thì dở hay.
Xin coi hiệp cách như vầy,
Bách chiến bách thắng phép nay đã bàn.

Sách xem phải nghĩ thời tường,
Hữu trung hình ngoại rõ ràng chẳng sai.

Người hiền coi mạo biết tài,
Vật hay nó cũng bày ngoài hình dung.

Giống gà rất đỗi anh hùng.
Cũng gồm năm đức cũng thông trăm tài.

Cổ liền, lườn thẳng lớn dài,
Vụ xương nặng đúc, ức hai bên dày.

Cổ cần càng vắn càng hay,
Khô chơn, thắt ngón cho gầy thời hơn.

Mình như bắp chuối chẳng nhường,
Vảy nước dưới cựa có tường hay chăng.

Vừa đóng tới cựa thời ăn,
Bằng không tới cựa nhọc nhằn công nuôi.

Phao câu liền chặt bền rồi,
Lừa mình, qui bối hẳn hòi cả gan.

Xám khô, Ô ướt ai ngang,
Danh rằng khuyết thạch danh vang bằng truyền.

Gà trên gà dưới phải bàn,
Cổ trường mà dẹp băng ngang thượng hành.

Cổ môn mà vắn ngỡ ngàng,
Lội lặn ở dưới khó dằn lên trên.

Dạy cho các thứ hư nên,
Chơn mình tốt cả, sắt bền như cưa.

Ô ăn gà tiá có thừa,
Tiá ăn gà nhạn một giờ chẳng lâu.

Nhạn ăn gà xám rất mau,
Xám ăn vàng ó, vàng hầu ăn ô.
Bảo cho mấy kế ăn thua,
Nằm lòng gắng gỏi cũng mua mà dùng.

Thế ấy mấy ai đương cùng,
Xa quăng mới dám chẳng dung giao đầu.
Xa quăng cầu ít đặng đâu,
Nằm lòng: cấn gối thấy hầu phải kiêng.

Gà quăng mười nước chẳng hiền,
Các thế phải nhường cả trường đều kinh.
Kiếm cho gà trụ tài tình,
Người đá như sấm trong mình chẳng hư.

Nằm lòng trụ dập, trụ quanh,
Trụ dập các thế thế nào cũng hơn.
Chấm bợ ai thấy cũng nhờn,
Ðá mé ăn đặng bởi hơn ngang đòn.

Ðá ngang ăn đá sỏ non,
Mé rồi thêm bợ thì còn sỏ đâu,
Gà sỏ tài đâm rất mầu,
Ðậm ăn gà mé thế hầu chẳng sai.

Mé ăn gà sỏ hoài hoài,
Sỏ ăn hầu, vậy hầu ăn chong.
Thế nào giữ thế cho ròng.
Kẻo nó hay phản phép trong không thường.

Trước đà phân thế xa gần,
Lại truyền phép vảy vân vân tỏ bảy.
Trăm hay chẳng bằng độ may,
Tam tài hễ có thời may muôn phần.

Ba cái kề xuống ân cần,
Ðã ròng sỏ mé sút bằng cũng ăn.
Dặm chiếc ba cái răn răn,
Tam tài chánh hiệu mười phần chẳng ngoa.

Ðóng liền ba cái kề ba,
May đá lịch bại nữa mà hãy quăng.
Vảy ấy nó ăn không chừng,
Nó đá có cái thiệt chưn, gãy cần,
Hồng sa phủ xuống sống chơn,
Khum khum vòng trái mười phần độ may.

Nguyệt luân vảy tợ hưng đoài,
Biết đá lịch bại thấy hoài chẳng không.
Ẩn tinh to nhỏ không cùng,
Nó ẩn dưới chậu danh đồng ẩn long.
Thỉ dực vầy tên làm song,
Tài hay lịch bại, đá thì hay quăng.

Nguyệt phủ la vảy buá trăng,
Thân nội cái vảy dường chưng buá hình.
Hai hàng vảy đóng rành rành,
Hai bên đâu lại hiệu danh giao đầu.

Ác tinh vảy ấy cũng mầu,
Ðóng bằng hột tấm : đá đâu cũng tàng.
Những trên mấy vảy nhứt ban,
Thảy tài lịch bại rõ ràng phải âu.

Thứ ba chỉ vảy nhiệm mầu,
Thần cơ tỏ hết trước sau phải bày.
Nghịch lân là vảy dư thay,
Hể đá thì hại ai hầu chẳng kiêng.

Phân nhau nó đóng dị hình,
Bất luận hàng ngũ biết tình khúc lân.
Nhơn tự nội đóng răn răn,
Vảy ấy tài bợ dữ bằng thần lôi.

Huyền châm vảy tượng lắm ôi,
Cáp gà ta phải thông coi kẻo lầm.
Vẩy ấy nó ăn vảy son,
Son ăn vảy mực, mực còn ăn vương.

Vương ăn nhựt tự tài thường,
Nhựt ăn công tự cho thường mới hay.
Công ăn bán nguyệt chẳng chầy,
Bán nguyệt ngoại lộ ăn rày kim qui.

Kim qui ăn khẩu tự di,
Khẩu tự nó chẳng kể gì cúc kim.
Cúc kim là vảy đàn em,
Trời sanh phải chịu thua dèm vảy kia.

Vảy song nhiều vảy éo le,
Phải truyền cho biết mà đề ăn thua,
Vảy nhỏ thì ăn vảy to,
Vảy dưới hộ trì nó chấp vảy trên.
Vảy khô ăn ướt đã liền,

Tả biên ăn đặng, hữu biên là thường.
Dạy bày vảy độ cho tường,
Ðóng trên ngón nội một đường mọc lên.
Gà may vảy độ nảy liền,
Mấy vảy mấy độ ăn toàn chẳng chơi.

Nhơn tự hoặc chỉ ngoài này,
Hoặc năm ba vảy như ngòi tự nhơn.
Mấy chữ mấy độ là chừng,
Ăn đã hết độ thì đành đem ra.

Vảy may vảy rủi đâu là,
Hư có vảy ngoại thiệt là chẳng may.
Ngoài chỉ một hai vảy rày,
Ấy là vảy rủi kể bày chớ nuôi.

Vấn ngang trên cựa rủi rồi,
Tam tài dầu có chẳng bồi đặng đâu.
Tam tài ngăn xuống thêm sầu,
Ngăn trên may độ gẫm âu hoài hoài.

Áp khẩu đường chém chẻ hai,
Ðóng trên các vảy sổ dài xuống nay.
Vảy độ nó chỉ ra rày,
Ấy là nó đó như dày cái kim.

Hoặc ngang hoặc chánh trung tâm,
Nuôi thì tốn lúa, đá thêm thua tiền.
Ðã phân vảy rủi vẽ viên,
Lại dạy lựa ngón móng biên, móng rồng.

Hình tằm, đầu trích độc hung,
Ngón nhỏ nhặt vảy ai hầu dám qua.
Lưỡng nghi vảy đá mé mà,
Ðóng đôi trên dưới thuận hoà đệ huynh.

Vảy chẻ nhơn tự quấn xen,
Vảy nguyên mà chẻ như hình tự nhân.
Nguyệt luân đóng vảy tròn hơn,
Ðóng trên đóng dưới cửa thần thinh không.

Nhơn tự cả thảy song song,
Nguyệt luân đôi cựa cũng dòng trúng đôi.
Móng ròng đá ẩn mà thôi,
Giao đầu nhập nôị cũng nòi đá ngang.

Nhập nội thế bảo cho tàng
Hàng vảy biên ngoại đổ tràn vô trong.
Tròng không thì dạng cũng không,
Thượng hạ có vảy giữa không có gì,

Vảy nghiên vảy phúc chia đi,
Ðá ăn người thấy cũng vì bộ chơn.
Vảy phúc rạch nhứt rành rành,
Vảy cái nó đóng như hình phát biên.

Vảy chưa một sắc vạn tuyền,
Dáng trổ một vảy sắc liền khác đi.
Sát nhơn chánh hiệu phải ghi,
Hai vên đều có phải vì phải kiêng.

Hai chưn vảy cút đôi bên,
Hiệu là song cút đá liên đá chồng.
Dưới cựa ba vảy song song,
Lại dặm một vảy nằm cùng một bên.

Nó là tứ thánh thiệt tên,
Hoặc ngang qua cựa dưới trên có thường.
Lên thì thấy nó đá ngang,
Dưới thì đá bợ, lại mằn hầu chơi.

Ngón giữa vảy đóng an nơi,
Tướng lân là hiệu đời đời nghe danh.
Như khẩu có vảy giăng ngang,
Vảy xa ra khỏi thấy càng hay quăng.

Gà người dày lớn mấy phân,
Vấn xương kiếm vảy chớ cân chớ nài.
Dị hình vảy đóng cũng tài,
Thấy nó dị diện nào ai biết gì.

Vảy nào vấn ra một khi,
Hình như nhơn tự càng thi diệu tài.
Trên cựa thắt lắm rõ ràng,
Hoặc nó đâm mắt cho tàng mà phân.

Ngang cựa dưới cựa ân cần,
Thắc lắm đâm mắt mười phần nào e.
Vảy hình kim đóng ngang bìa,
Vấn ngang là vảy chữ đề bình an,
Vảy nào mà thấy đóng ngang,
Ðá nhằm một cái nửa bên ngặt nghèo.

Ðôi vảy chen lại tự nhơn,
Chỉ ra áp khẩu nên thân đâu là.
Ngón nội thấy vảy chỉ ra,
Gà ấy ăn độ phải ghi tấc lòng.

Vảy độ chỉ ra rành rành,
Gà đà ăn độ lời đành bảo cho.
Vảy độ mấy vảy chẻ ra,
Ðà ăn mấy độ coi qua thì tường.

Dạy rằng cho độ mọi đường.
Tương sanh tương khắc có tường hay chưa ?
Từ nay cho những ngàn xưa,
Phong trần đã lắm bây giờ mới tinh.

Tùy cơ ứng biến rất xinh,
Ăn vì dày trí, phải gìn lời khuyên.
Hoài chi tấm bạc đồng tiền,
Trông gặp thì đá thua phiền đặng sao !

Lựa cho hiệp cách con nào,
Ðá thì thấy thắng phép trao chẳng lầm.
Dám khuyên những khách hùng tâm,
Của này xin nhớ giá cầm là chơi.

Ô thủy, tía hoả, tánh trời.
Nhạn kim, xám mộc, thổ thì huỳnh kê.
Gà ó thổ vượng tư bề,
Cùng vàng đồng mạng chớ hề nghi nan.

Gà bông gà chuối, xám, vàng,
Gà lau, gà chuối, cùng chàng cú kê,
Cứ theo sắc chánh mà suy,
Ngũ hành ngũ sắc kể gì dáng lông.

Xám son, cú chuối nổ bông,
Thiệt là sắc dáng phải ghi tỏ tường.
Giả như xám trổ mã vàng,
Thiệt là sắc mộc màu vàng kể chi.

Bông nổ mã ô đen sì,
Màu thời chẳng kể, kể thì thủy ô.
Như vàng mã chuối trỏ vô,
Kể là sắc thổ chuối dò làm chi.

Gà tiá trổ lau một khi,
Ðành rồi hoả mạng ai thì kể lau.
Gà nhạn trổ đen vàng màu,
Chánh sắc kim thiệt ai hầu vàng đen.

Sắc dáng cũng ăn sắc toàn,
Tương sanh tương khắc cậy liền can chi.
Hoặc là thủy vượng hoả suy,
Cũng hay tương khắc tứ thì chẳng không.

Mùa xuân mộc thạnh khôn cùng.
Gà nhạn tuyết ấy khắc đồng mấy cho.
Mùa hè khí vận lửa lò,
Gà tiá hoả mạng ấn phu với hè.

Qua thu âm khí nặng nề,
Ó gà thủy cũng sánh kề kém đâu.
Ðông lai thủy thuộc ruộng sâu,
Ðừng cho gà xám mạng sanh phải mùa.

Ó vàng hai sắc một pho,
Thổ vượng tứ quí bốn mùa có vay.
Cho hay thổ mẫu sanh ra,
Kim nhờ thổ mạch mới là có kim.

Kim lại sanh thủy chớ hiềm,
Thủy thời sanh mộc, hoả hiềm mộc sanh.
Ấy là ngũ hành tương sanh,
Lại dạy tương khắc sẵn dành đinh ninh.

Ðã hay thua đã tương sanh,
Nhưng mà tương khắc tắc tình lạ thay.
Ô thủy ăn tiá hoả ngay,
Tiá ăn kim nhạn ngày rày chẳng lâu.

Nhạn ăn xám mộc rất mau,
Xám mộc ăn thổ ó, lau, với vàng.
Nó hay phản khắc ghe (nhiều) đàng.
Ó thì ăn tiá vàng thường ăn ô,
Nhựt thần cho đặng cũng phò,
Can chi hiệp nó chẳng lo nỗi gì.

Giáp ất là mộc vân vi,
Bính đinh ngày ấy hoả thì chẳng sai.
Canh tân vốn thiệt kim hoài,
Nhâm quí thuộc thủy mà ai chẳng tường.

Mậu kỷ thổ vượng trung ương,
Tương sanh đặng nó, nó càng thêm xuê.
Ngày thời lấy thế mà suy,
Kim, mộc, thủy, hoả, thổ thì phải coi.

Ngày sanh hay khắc mấy ngôi,
Phải phân cho rõ hẳn hòi mà toan.
Giả như ngày thuộc kim toàn,
Vàng tiá thì hơn, xám nhạn thì thua.

Ngày nào thuộc mộc tía no,
Xám nhạn cũng thắng, ó đùa chạy ngay.
Ngày mà thuộc thủy nhẫn ngày,
Ó, Ô đều thắng, vàng rày lại thua.

Ngày nào thuộc hỏa ngày mô,
Ó vàng đều thắng, tía đồ vô công.
Ngày mà thuộc thổ vun trồng,
Ó nhạn đều thắng, ô thua chạy dài.

Phép xem này nữa chẳng sai,
Kim, mộc: ó, thổ : ô nhai thủy trầm.
Thổ , kim, hoả, vận tam lâm,
Nhựt thần là thủy khắc thâm ba chàng.

Xám, mộc, nhạn, kim rõ ràng,
Ngày lại gặp thủy phải toan trở về.
Ô thuộc mạng thủy thường lề,
Nhạn tài cho lắm mựa hề giao phong.

Ó thổ gặp ngày mộc xung,
Nhựt thần thọ khắc, thế phòng bị thương.
Tiá thuộc mạng hoả là thường,
Ô thủy gặp hoả phải nhường anh va.

Ô là mạng thuộc thủy hòa,
Xám mộc đầu gặp nẻo xa cũng về.
Ó, vàng đều thổ một bề,
Gặp đặng ngày hỏa ăn dè thủy ô.

Tuổi già đã tám mươi lăm,
Dọn đặng một cuốn cầm bằng ngàn cân.
Chỉ bày đã hết xa gần,
Nghề chơi song cũng tinh thần vậy vay,

Ai dầu coi đến sách này,
Trăm người xin thấy công dày mà thương.
Phong lưu tài trí cao cường,
Ngàn năm xem xét thì tường tài năng.

Chữ rằng đỗ vật tư nhơn
Tiên giác, hậu giác ân cần một chương.


Nguồn: Wikipedia và Báo Nông cổ mín đàm, 1902


No comments:

Post a Comment