Thursday, January 14, 2016

Lịch Sử Và Sự Phát Triển Của Phật Giáo Hòa Hảo





I.- VỊ-TRÍ ĐỊA-DƯ

Nền Đạo Phật Giáo Hòa Hảo được khai sáng tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, Tỉnh Châu Đốc, Nước Việt Nam, vào thời đó phát triển mạnh ở Miền Tây Nam Việt, nhứt là tại các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau và Thành phố Sài Gòn.


Đặc biệt đây là những tỉnh đồng bằng thuộc châu thổ sông Cửu Long, giáp giới nước Cao Miên được mệnh danh là vựa lúa của Việt Nam. Nhờ sự phì nhiêu của đất đai, vùng này có khả năng vĩ đại về nông nghiệp, và có một vai trò căn bản trong nền kinh tế nông nghiệp hiện nay của nước Việt Nam.


Riêng vùng này, gọi chung là Miền Tây hay Đồng Bằng Sông Cửu Long, ngày nay gồm 12 tỉnh là : Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau với tổng diện tích canh tác lúa là 4,009,000 mẫu tây ; cây hoa màu : 4,500,000 mẫu tây. Tổng sản lượng hằng năm gần 16,000,000 tấn lúa (Thống Kê năm 1999) chưa kể những sản phẩm hoa-mầu phụ, và ngư nghiệp, chăn nuôi... Đại đa số gạo xuất cảng của Việt Nam sang các nước cần mua mễ cốc, đã xuất phát tại vùng này.


Cũng cần nói rõ là lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa gồm có diện tích tổng cộng là 17.326.000 mẫu, trong đó có khoảng 3.000.000 mẫu hiện đang canh tác nông nghiệp. Trên căn bản ấy, vùng Hậu Giang, nơi xuất phát và bành trướng ảnh hưởng của đạo Phật Giáo Hòa Hảo, ước lượng 1.885.000 mẫu tây canh tác nông ngiệp, được kể là 60 % tổng số diện tích khả canh toàn quốc.


II.- NGUỒN GỐC


Ngoài sự kiện kinh tế trên đây, vùng này còn có một số dãy núi mà nhiều văn kiện lịch sử xưa nay đã lưu truyền rằng tại đó chứa đựng nhiều điều huyền bí ly kỳ, nhứt là bảy dãy núi Thất Sơn tại biên giới tỉnh Châu Đốc giáp xứ Cao Miên.


Những điều huyền bí đó lưu truyền trong sách vở đến nay chưa ai cắt nghĩa được ngoài sự kiện cụ thể là chính tại vùng Thất sơn này đã phát xuất, từ năm 1849 một vị Phật Sống tức Đức Phật Thầy Tây An, sáng lập tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, và sau này vào năm 1939, cũng một vị Phật Sống khác là Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, tiếp nối truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương mà khai sang mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo, cũng tại một địa điểm gần dẫy Thất Sơn.


Tuy là Phật Giáo Hòa Hảo mới ra đời từ 1939 đến nay, nhưng đã có nguồn gốc tông-phái từ 1849, tức là trên một trăm năm nay.


Đức Phật Thầy Tây An đã nổi danh khắp Miền Nam Việt Nam, là một vị Phật Sống và một nhà ái quốc, cũng như sau này Đức Huỳnh Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo cũng được người Việt Nam tôn sùng là một vị Phật Sống xuống thế cứu đời, đồng thời cũng là một nhà Cách mạng quốc gia chơn chánh. (xin xem Tiểu Sử và Giáo Lý của Đức Huỳnh giáo chủ.)


III.- SỐ TÍN-ĐỒ PHẬT-GIÁO HÒA-HẢO


Tổng-số tín đồ P.G.H.H. được ước lượng vào khoảng trên 5 triệu người trong toàn quốc, đại diện là tỉ số 38% trên tổng dân-số 16,133,434 người của Đồng Bằng Sông Cửu Long.


Có những tỉnh như An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bạc Liêu tín đồ Phật-Giáo Hòa-Hảo lên đến 90% dân-số; ở các tỉnh khác, tỷ số này thay đổi từ 10 đến 60%.


Nếu các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo tham gia các cuộc bầu cử ứng cử trong nhiệm vụ đại biểu nhân dân, thì họ sẽ chiếm được đại đa số ghế. Tỷ-dụ trong cuộc bầu cử Hội đồng hàng Tỉnh 1965, tại các tỉnh An giang, Châu Đốc, tất cả các đại biểu nhân dân đều là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo; và tại các tỉnh Kiến phong, Vĩnh long, Phong dinh, tín-đồ P.G.H.H. đã chiếm 80% số ghế. Tỷ số này cũng đã được thể hiện trong cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa ngày 11-9-65, và liên danh đắc cử nhiều phiếu nhứt trong toàn quốc là liên danh của tín đồ P.G.H.H. tỉnh An giang.


IV.- ĐẶC-TÍNH PHẬT-GIÁO HÒA-HẢO


Hiện nay Phật Giáo Hòa Hảo là một trong số 4 tôn giáo quan trọng nhứt ở Việt Nam. Với khối quần chúng trên 5 triệu người P.G.H.H. không những có tánh chất của một khối quần chúng tâm lý sắt son tin tường nơi giáo lý cao siêu của Đức Huỳnh giáo chủ, mà còn thêm có tổ chức thành hàng ngũ, hệ thống chặt chẽ để chịu đựng mọi thử thách cam go mà tự tồn và phát triển.


ĐẶC TÍNH THỨ NHẤT : nằm trong truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương đến Phật Giáo Hòa Hảo là một nền đạo Phật gần gũi với ĐẠO LÝ DÂN TỘC (NHÂN - HIẾU - TRUNG - NGHĨA)


Trên phương diện Nhân sinh và Xã hội, người ta cũng nhận định rằng bản chất thuần phác của ngưởi nông dân cho họ có căn bản thuận lợi để tu học theo đạo Phật và thấm nhuần đạo lý làm người sống trong quan hệ với gia đình, xã hội, đất nước để rèn luyện trở thành những hạt giống tốt gieo trồng cho một tương lai toàn thiện, toàn mỹ sau này. Tuy gốc Đạo bám rễ trên tầng lớp nông dân nhưng từ đó các lớp tín hữu sau nhờ tiếp thu nền học vấn tiên tiến đã và đang vươn lên đến đỉnh trí tuệ để đóng góp cho đời bàn tay, khối óc của họ.


ĐẶC TÍNH THỨ HAI : Phật Giáo Hòa Hảo cũng như Bửu Sơn Kỳ Hương đều chủ trương tu hành tại gia. Bởi vì các vị Giáo chủ nay đã nghĩ rằng đạo Phật không những chỉ truyền bá ở thiền môn mà còn phải phát-triển rộng-rãi đến mọi gia-đình.


Do đó các tín đồ P.G.H.H. không bắt buộc cạo đầu vào chùa, lìa bỏ mọi việc ngoài thế-gian, mà họ vẫn ở tại gia đình, sống như mọi người công-dân khác, với nếp sống bình-dị trong nông-nghiệp, đồng thời tu hành theo giáo-lý Đức Thích-Ca.


Tôn chỉ tu-hành của Phật Giáo Hòa Hảo là HỌC PHẬT TU NHÂN, tức là noi theo giáo-lý chơn-truyền của Đức Phật mà tu sửa con người, để vừa làm tròn bổn phận trong cõi đời đang sống, vừa dọn thân tâm cho trong sáng đề được siêu thăng vào cõi Tịnh độ Cực lạc, giải thoát khỏi vòng luân hồi.


Để thi hành tôn chỉ Học Phật Tu Nhân, người các tín đồ P.G.H.H. phải tích cực thực hiện Tứ Ân, tức bốn điều ân lớn là:


Ân Tổ Tiên Cha-mẹ


Ân Đất Nước


Ân Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng)


Ân đồng bào nhơn-loại


(Xin xem Sấm Giảng quyển 6 do Đức Huỳnh Giáo-Chủ viết)


Cũng trong đường lối đó, người tín đồ P.G.H.H. đã tỏ ra tích cực tu hành đồng thời cũng tích cực hy sinh vì đất nước, khi quốc gia hữu-sự.


ĐẶC TÍNH THỨ BA : là sự canh tân phương pháp hành đạo nhằm loại trừ mọi hình thức rườm rà mê tín dị đoan. Đặc tính canh tân này có mục đích loại bỏ âm thinh sắc tướng để phát dương phần tinh túy của Đạo Phật, đúng theo chánh-pháp vô vi của Đức Phật.


Đạo Phật Giáo Hòa Hảo chủ trương canh tân như sau:


Không cất chùa đúc tượng thêm, ngoài những ngôi chùa đã sẳn có. Ai giầu lòng từ thiện thì nên phát tâm bố thí, cứu trợ kẻ nghèo khổ, thì hơn là cất chùa lớn đúc tượng cao.


Không chấp nhận thầy cúng, thầy lễ, thấy bói, thầy phù thủy, cũng không dâng cúng chè xôi thực phẩm cho Phật, vì Phật không dùng những của hối lộ đó.


Không dùng cờ phướn, lầu kho, đốt giấy tiền vàng bạc, phí tổn vô-ích . . .


Không khóc lóc hay làm linh đình lúc tang ma, mà chỉ im lặng cầu nguyện cho linh hồn kẻ chết được siêu thoát.


Không ép hôn, thách thức tiền cưới hay tiệc rượu linh đình, vì sẽ mang nợ, gay hại về sau.


Tóm lại, giáo pháp Vô Vi Phật Giáo Hòa Hảo nhằm canh tân phương pháp hành đạo để trở về với Giáo lý chơn truyền của Đức Phật, là tu hành TÂM, chẳng phải ở hình thức nghi lễ bề ngoài.


V.- SỰ THỜ PHƯỢNG CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO


Trong chủ trương canh tân nói trên, sự thờ phượng trong nhà các tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thật là giản dị.


Trên bàn thờ, không có tượng Phật, không có chuông mõ. Chỉ có một tấm Trần bằng vải mầu dà, tượng trưng cho sự hòa hợp nhơn loại, và cho màu sắc nhà thiền. Đó là bàn thờ Chủ Phật. Dưới bàn thờ Phật là bàn thờ Cửu huyền Thất Tổ, ông bà cha mẹ đã khuất. Trước nhà có một bàn thờ lộ thiên (gọi là Bàn Thông-Thiên) để người tín đồ cảm thông với Trời Đất, bốn phương Trời, mười phương Phật.


Không dùng bất cứ thực phẩm nào kể cả trái cây, để cúng Phật, mà chỉ dùng nước lạnh, bông hoa, và nhang. Nước lạnh tượng trưng sự trong sạch, bông hoa tượng trưng sự tinh khiết và nhang làm át mùi uế trược.


Mỗi ngày người tín đồ P.G.H.H. làm lễ cúng Phật, ít nhứt hai lần, buổi sáng và buổi tối. Trong các ngày rằm, mồng một, ngày vía Chú Phật, họ đến chùa hay hội quán hành lễ, và nghe kinh giảng hay nghe thuyết pháp.


Lúc hành lễ họ không dùng mõ chuông, mà chỉ lâm râm tâm niệm. Khi nào mắc công việc thì đến giờ hành lễ họ quay mặt về hướng Tây mà cúng Phật, và khuyến khích nhau ngồi đâu, ở đâu cũng tụng niệm trong tâm.


Ngoài ra trong các Xã, Ấp có những độc giảng đường trang bị máy phóng thanh, đễ mỗi ngày trong những giờ nhứt định. có những giảng viên đến đọc kinh giảng hay thuyết pháp cho người chung quanh cũng nghe.


Độc Giảng Đường Phật Giáo Hòa Hảo là những ngôi chùa thâu hẹp chỉ để truyền đạo, chứ không phải để cư trú, nên nhỏ hơn chùa, bởi bản chất Phật Giáo Hòa Hảo là cư sĩ tại gia.


Trước năm 1975, chỗ nào có nhiều tín đồ P.G.H.H. đều có độc giảng đường, với nét kiến trúc đặc biệt của Phật Giáo Hòa-Hảo. Theo kiểm kê 1965 có 390 Độc Giảng Đường P.G.H.H.


VI.- CỜ ĐẠO, HUY-HIỆU


Cờ đạo hình chữ nhựt màu dà, không có chữ hay hình tượng nào.


Huy hiệu P.G.H.H. hình tròn màu dà, bìa vàng trên có bông sen trắng, và bốn chữ tắt P.G.H.H.





VII.- THÁNH-ĐỊA


Thánh địa Phật Giáo Hòa Hảo đặt tại làng Hòa Hảo và Tổ Đình Phật Giáo Hòa Hảo là sanh quán của Đức Huỳnh Giáo chủ, và cũng là nơi khai sáng mối Đạo. Tại đây không có sự xây cất đồ sộ, nhưng có một nếp sống đặc biệt an-lạc, với không khí đạo giáo.


VIII.- HỆ THỐNG TỔ-CHỨC


Đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo được quản trị bỡi một hệ thống Ban Trị Sự. Các Ban trị sự được thiết lập từ mỗi Ấp, Xã, Quận, Tỉnh. Trên hết là một Hội Đồng Trị Sự Trung ương. Mỗi Ấp chia làm nhiều chi-hội.


Nhờ một tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào tới hạ tầng cơ cở quần chúng, nên sự điều hành công việc được chặt chẽ, và các chỉ thị được thi hành suốt từ Trung Ương xuống đến chi hội.


Nguyên tắc tổ chức và điều khiển là Dân chủ tập trung, tức là:


BẦU CỬ - Các tín đồ bầu cử lựa chọn Đại diện của mình vào các Ban trị-sự Ấp. Sau đó các Ấp bầu Ban Trị Sự Xã, và các Ấp, Xã bầu Ban trị sự Quận, Tỉnh. Rồi tất cả Ấp, Xã, Quận, Tỉnh, bầu lên Hội đồng Trị sự Trung ương


LÃNH-ĐẠO - Tổ đình Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo lo việc phụng tự và nghi lễ tại Thánh Địa Hòa Hảo.


Nguyên tắc dân chủ tập trung làm cho các Trị sự viên được bầu có tính chất đại diện bởi đã được lựa chọn theo tiêu chuẩn đạo đức, nên đương nhiên có uytín để điều hành mọi việc. Do đó, giáo quyền được tôn trọng theo nguyên tắc hạ cấp phục tòng thượng cấp.


Bên cạnh Hội đồng Trị sự Trung ương có một Hội đồng Bảo Pháp đặc trách vấn-đề thi hành kỹ luật theo giới điều của Đạo.


Trên hết có vị lãnh đạo tinh thần tối cao là Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ, đại khai sáng mối Đạo.



IX.- SINH-HOẠT


Phật Giáo Hòa Hảo được khai sáng từ năm 1939. Lúc đó là thời kỳ Việt Nam lệ thuộc nước Pháp, nên người Pháp nhiều lần đàn áp và ngăn chận sự truyền đạo của Đức Huỳnh giáo chủ.


Đến khi quân đội Nhựt tiến chiếm Đông Dương, nhà cầm quyền Nhựt tỏ ý muốn giúp đỡ các đòan thể quốc gia và tôn giáo để đòi lại chủ quyền trong tay người Pháp. Do đó, vào năm 1942, Đức Huỳnh giáo chủ được quân đội Nhựt giải thoát khỏi tình trạng biệt giam tại Bạc Liêu, và đưa Ngài về Saigon. Đức Huỳnh Giáo chủ tuy cám ơn người Nhựt đã giải thoát mình, nhưng vẫn một mực đòi hỏi chánh phủ Nhựt hãy thật sự giao trả chủ quyền Việt Nam cho dân tộc Việt Nam.


Năm 1945, đoàn-thể P.G.H.H. tổ chức kháng chiến chống Pháp, và sau đó chống chế độ độc tài khủng bố do Cộng Sản Việt minh chủ trương.


Sau khi Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt từ 1947, Phật Giáo Hòa Hảo được sự dẫn dắt của Đức ông Huỳnh Công Bộ, là thân sinh của Đức Huỳnh Giáo Chủ tiếp tục phát huy đạo pháp tại Tổ Đình Phật Giáo Hòa Hảo - Thánh Địa xã Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay trực thuộc tỉnh An Giang), là người chỉ đạo vừa quân sự lẫn giáo quyền trực thuộc Phật Giáo Hòa Hảo.


Về quân sự chia làm 4 khu vực chính :


Tướng Trần Văn Soái (tự Năm Lửa) : Cái Vồn, Cần Thơ, và Vĩnh Long.


Tướng Nguyễn Giác Ngộ (ông Nguyễn) : Chợ Mới - An Giang.


Tướng Lê Quang Vinh : An Giang và Cần Thơ.


Tướng Lâm Thành Nguyên : Châu Đốc và Hà Tiên.


Về nhân sĩ dân sự :


đặt dưới sự điều động của Đức Ông Huỳnh Công Bộ gồm các nhân sĩ tiêu biểu :


Lương Trọng Tường


Trần Văn Nhựt (tự Dật Sĩ)


Nguyễn Ngọc Tố


Nguyễn Văn Hầu


Luật sư Mai Văn Dậu v.v..


Sau khi hiệp định Giơ Neo ký kết, Ông Ngô đình Diệm chấp chánh quyền hành tại Việt Nam, và dưới chế độ gia đình trị này, Phật Giáo Hòa Hảo cũng lại bị đàn áp, không được tự do sinh hoạt.


Chỉ sau khi chế độ này bị lật đổ ngày 1-11-63, Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo mới có thời cơ để tổ chức lại hàng ngũ tín đồ và hệ thống các Ban Trị Sự từ năm 1964 đến năm 1975.


Đức Ông Huỳnh Công Bộ lãnh đạo Tổ Đình Phật Giáo Hòa-Hảo từ năm 1947 đến năm 1961. Sau khi Đức Ông qua đời, Đức Bà Lê Thị Nhậm thay thế đảm nhận cương vị lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo (Hội Trưởng Danh Dự Tối Cao) . Đến 1967 Tổ Đình Phật Giáo Hòa Hảo phải chịu đựng rất nhiều khó khăn mất mát. Nhân viên cán sự quan trọng của Tổ Đình bị bắt cóc và thủ tiêu, điển hình là ông Huỳnh Hữu Thiện (tự Ký Dữ), Trần Văn Tập, Huỳnh Thiện Tứ, Lê Hoài Nam, và tài xế xe tên Dành trong số 5 yếu nhân của Tổ Đình bị mật vụ chánh quyền Ngô Đình Diệm thủ tiêu. Dù vậy Tổ Đình Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo đã vượt hết mọi khó khăn bảo vệ được đoàn thể.


Khi biến cố lịch sử 1975 của đất nước xảy ra, các ban trị sự bị chính quyền giải tán và ngưng hoạt động. Tình trạng của giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo trở lại như thập niên 1950 ; trong nước duy nhứt chỉ còn tồn tại Tổ Đình Phật Giáo Hòa Hảo do Cô Năm Huỳnh Thị Kim Biên (mất 1978 tại VN) là bào muội của Đức Huỳnh Giáo Chủ cùng gia đình thân tộc can đảm chịu đựng giai đoạn đen tối và khó khăn nhứt của Giáo sử.


Tổ Đình Giáo Hội PGHH đã bị cô lập và áp lực từ chính quyền trên mọi phương diện . Lấy hai chữ HÒA HẢO làm đầu, lãnh đạo Tổ Đình cương quyết giữ vững lập trường phi bạo lực, phi chính trị ; tránh tất cả nguyên nhân để Nhà nước vinh vào đó mà đàn áp gây thương vong cho tín đồ PGHH . Cho dù PGHH có được chính phủ do ai cầm đầu có hay không công nhận, cho hay không cho cho phép hoạt động, PGHH cùng Tổ Đình Phật Giáo Hòa Hảo vẫn tồn tại và đó là một thực thể bất biến và vĩnh hằng.


Trong phương thức HỌC PHẬT TU NHÂN, trên 5 triệu người tín-đồ P.G.H.H cư sĩ tại gia đồng thời với tu sửa thân tâm, lại còn đóng góp vào việc phát triển nền kinh tế nông nghiệp của Việt Nam. Hơn thế, khi quốc gia hữu sự, tín-đồ P.G.H.H sẵn sàng hiến dâng đời sống hy sinh để bảo vệ Tổ quốc và Đạo nghĩa.


Mỗi năm đặc biệt trong ngày lễ Kỷ niệm khai sáng mối Đạo vào 18 tháng 5 âm lịch, các sự kiện trên đây được thề hiện trong tổ chức đại lễ nơi Thánh địa Hòa Hảo, và ở khắp vùng Hậu giang.



X.- TRONG CỘNG-ĐỒNG PHẬT-GIÁO THẾ-GIỚI


Hiện nay Phật Giáo Hòa Hảo là một trong số 4 tôn giáo quan trọng nhứt ở Việt Nam. Với khối quần chúng trên 5 triệu người, Phật Giáo Hòa Hảo không những có tánh chất của một khối quần chúng tâm lý sắt son tin tưởng nơi giáo lý cao siêu của Đức Huỳnh Giáo Chủ, mà còn thêm có tổ chức thành hàng ngũ, hệ thống chặt chẽ, để chịu đựng mọi thử thách cam go mà tự tồn và phát triển.


Trên bình diện quốc gia, Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo là một hội viên sáng lập cùa Hội Đồng Tôn Giáo Việt Nam, một cơ quan đoàn kết các tôn giáo chánh yếu như Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài Giáo... Đồng thời đoàn thể P.G.H.H cũng tham gia các sanh hoạt quốc gia, đúng theo truyền thống của một tôn giáo dân tộc. Ngoài ra, giáo lý P.G.H.H. cũng đã được tiếp nhận với nhiều cảm tình bởi nhiều giới trí thức Đông Phương cũng như Tây Phương.


Bởi vì, với một giáo thuyết hòa đồng tinh hoa Tam giáo, Phật Giáo Hòa Hảo đã phát dương giáo pháp chơn truyền của Đức Thích-Ca Mâu-Ni làm căn bản giáo lý, lại thêm các tư tường Nho giáo, Lão giáo, đã ăn sâu vào tập tục dân tộc Việt Nam, để kết thành một hệ thống tư tưởng Đạo học có đặc thái dân tộc Việt-Nam.


Với giáo thuyết phong phú ấy, Phật Giáo Hòa Hảo là một tổ chức đang hướng dẫn một phần nhơn loại dưới ánh sáng của Đức Phật, để đưa con người trong thế kỷ hiện tại đến những giá trị tinh thần mới, hầu cùng với các Phật tử Thế giới và các Giáo hội Phật giáo khắp các quốc gia, biểu dương Đạo Phật, cải tạo xã hội, giải thoát Con Người.



XI.- HỆ-THỐNG TỔ CHỨC


Tổ Đình Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo

Ban Trị Sự Phật Giáo Hòa Hảo

(Tài-liệu Báo PHƯƠNG-ĐÔNG số 23, xuất bản tháng 5/1973, do tác giả Hinh-Phương viết)


Tổ Đình Phật Giáo Hòa Hảo do các thành viên Huỳnh Tộc trông coi và thực hiện nhiệm vụ gìn giữ di tích lịch sử của Phật Giáo Hòa Hảo.


Tổ Đình là nơi tổ chức các nghi lễ lớn trong năm và cũng là nơi đã diễn ra cuộc lễ tấn phong Ban Trị Sự Trung Ương nhiệm kỳ I do ông Lương Trọng Tường được đề cử làm Hội Trưởng (29-11-1964).



XII.- HỆ-THỐNG BAN-TRỊ-SỰ


Hội-đồng Trị-sự Trung-Ương

Các Ban-Trị-Sự Tỉnh : An-giang, Châu-đốc, Sadec, Kiến-phong, Kiên-giang, Vĩnh-long, Phong-dinh, Bạc-liêu, Chương-thiện, An-Xuyên, Ba-Xuyên, Biên-hòa, Gia-định, Vĩnh-bình, Kiên-hòa, Kiên-tường, Lâm-đồng, Tuyên-đức, Ninh-Thuận, Phú-Yên, Bình-định, và liên tỉnh Long-an/Đinh-tường.
Các Ban-Trị-Sự Xã : Saigon, Cần-thơ, Mỹ-tho, Rạch-giá, Vũng-tàu, Đà-lạt
Các Ban-Trị-Sự trực thuộc Trung-ương : Thánh-địa Hòa-Hảo, Xã Thiện-từ
82 Ban-Trị-Sự cấp Quận, 476 Ban-Trị-Sự cấp Xã, 3,100 Ban-Trị-Sự Ấp


XIII.- CƠ SỞ TU-VIỆN


213 chùa-chiền, tu-viện

468 độc-giảng-đường
2,876 văn-phòng


XIV.- NHÂN-SỰ


Hội đồng Trị-sự Trung-ương gồm 23 người.

Các Ban-Trị-Sự gồm từ 10 đến 15 người.
36,500 trị-sự-viên các cấp .
2,679 tu sĩ và nhân viên tại các tu viện.
6,086 độc giảng viên.
10,000 nhân viên và khóa sinh ngành Phổ-thông giáo-lý.


(sưu tầm )    

No comments:

Post a Comment