Trải bốn nghìn năm dựng nước nhà,
Sông khoe hùng dũng, Núi nguy nga.
"Trả ta Sông Núi!" Bao người trước
Gào thét đòi cho bọn chúng ta.
Trả ta Sông Núi! Từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha
Ngược vết thời gian, cùng nhắn nhủ:
Không đòi, ai trả Núi Sông ta?
Cờ báo phục hai Bà khởi nghĩa
Đuổi quân thù xưng Đế một phương
Long-Biên sấm rậy sa trường
Ba thu xã tắc miều đường uy nghi
Xót nòi giống quản chi thân bồ liễu,
Giòng Cấm-Khê còn réo tinh anh
Một phen Sông Núi tranh giành
Má hồng ghi dấu sử xanh đời đời.
Bể dâu mấy cuộc đổi rời,
Lòng trăm họ vẫn dầu sôi bừng bừng
Mai-Hắc-Đế, Phùng-Hưng Bố-Cái
Liều thế cô dằng lại biên cương
Đầu voi Lệ-Hải Bà-Vương
Dù khi chiến tử vẫn gương anh hào
Tinh thần độc lập lên cao,
Sài lang kia! Núi Sông nào của ngươi?
Núi Sông ấy của người dân Việt
Chống Bắc phương từng quyết thư hùng
Ngô-Quyền đại phá Lưu-Cung,
Bạch-Đằng-Giang nổi muôn trùng sóng reo
Hồn tự chủ về theo lửa đuốc
Chữ Thiên thư "Nam quốc sơn hà";
Phá tan nghịch lỗ không tha
Tướng quân Thường-Kiệt gan già mấy mươi!
Gươm chiến thắng trỏ vời Đông-Bắc,
Hịch Vải nêu tội giặc tham tàn,
Dựng nhân nghĩa, vớt lầm than
Danh thơm ải ngoại, sấm ran biên thùy.
Khí thiêng lòa chói tư bề,
Phường đô hộ có gai ghê ít nhiều?
Cửa Hàm-Tử vắng teo vết Cáo,
Bến Chương-Dương cướp giáo quân thù.
Trận Đà-Mạc dẫu rằng thua,
Làm Nam quỷ, chẳng làm vua Bắc đình
Chém kiêu tướng đồn binh Tây-Kết,
Triều Phú-Lương gầm thét giang tân
"Phá cường địch báo hoàng ân"
Trẻ thơ giòng máu họ Trần cũng sôi.
Kìa trận đánh bèo trôi sóng dập,
Sông Bạch-Đằng thây lấp xương khô
Những ai qua lại bây giờ,
Nghe hơi gió thoảng còn ngờ quân reo.
Hịch Vạn-Kiếp lời khêu tướng sĩ,
Hội Diên-Hồng quyết nghị toàn dân
Khuông phù một dạ ân cần,
Vó thiêng ngựa đá hai lần bùn rây,
Sơn hà mấy độ lung lay
Máu bao chiến sĩ nhuộm say màu cờ.
Cảm ý Núi ngồi mơ độc lập,
Thuận tình Sông trôi gấp tự do,
Ấy ai đầu dựng cơ đồ,
Gấm thêu lời chiếu Bình Ngô thuở nào?
Cơn nguy khốn ra vào sinh tử,
Thân nằm gai lòng giữ sắt son
Linh-Sơn lương chứa hao mòn
Quân tan Côi-Huyện chẳng còn mảy may.
Chén rượu ngọt cùng say thấm thía
Tình cha con mà nghĩa vua tôi.
Thuận dân là hợp ý trời
Sử xanh chót vót công người Lam-Sơn
Quốc dân chung một mối hờn
Cần câu đánh giặc mà hơn giáo dài!
Chống ngoại địch gươm mài quyết chiến,
Voi Quang-Trung thẳng tiến kinh kỳ;
Phá Thanh binh, trận Thanh-Trì,
Sông Hồng khoảnh khắc lâm ly máu hồng.
Núi rậy sấm cho Sông lòe chớp,
Cờ Tây-Sơn bay rợp Bắc-Hà
Xác thù xây ngất Đống-Đa
Bụi trường chinh hãy còn pha chiến bào.
Tinh thần độc lập nêu cao,
Sài lang kia, Núi Sông nào của ngươi?
Cường quyền vẫn muôn đời cưỡng áp
Dưới bàn tay giặc Pháp càng đau
Chúa tôi rỏ lệ cùng nhau
Khua chiêng hải ngoại rừng sâu kéo cờ
Dạ Cần-Vương trơ trơ thiết thạch
Kẻ Văn thân Hiệp khách cùng chung
Hoàng-Hoa-Thám, Phan-Đình-Phùng
Khói reo Thanh Nghệ, lửa bùng Thái-Nguyên
Hợp Nghĩa-thục kết liên đồng chí
Xuất dương tìm tri kỷ Đông Đô,
Phan-Sào-Nam, Phan-Tây-Hồ
Long đong bốn bể mưu đồ cứu dân
Vận nước chửa hết tuần bĩ cực
Sức người khôn đọ sức ông xanh
Mỗi phen gắng gỏi tung hoành
Thương ôi, sự nghiệp tan tành mỗi phen!
Nguyễn-Thái-Học gan bền chí cả
Họp đồng bang dóng dả nên đoàn
Rừng xanh bụi đỏ gian nan
Mong đem nhiệt huyết dội tan cường quyền
Tổ chức việc tuyên truyền ám sát
Khắp nơi nơi từng hạt từng châu
Xiết bao hy vọng buổi đầu
Một đêm Yên-Bái ngờ đâu tan tành.
Ôi! Việt sử là tranh đấu sử
Trước đến sau cầm cự nào ngơi
Tinh thần Cách mạng sáng ngời
Bao người ngã, lại bao người đứng lên.
Ngày nay muốn Sông bền Núi vững
Phải làm sao cho xứng người xưa
Yêu nòi giống hiểu thời cơ
Bốn phương một ý phụng thờ giang sơn
Đừng lo yếu, hãy chung hờn
Cần câu đánh giặc từng hơn giáo dài.
Trả Núi Sông ta! Lời dĩ vãng
Thiên thu còn vọng đến tương lai
Trả ta Sông Núi, câu hùng tráng
Là súng là gươm giữ đất đai...
Trông lên cao ngất phương trời
Hồn thiêng Liệt sĩ bừng tươi sắc cờ.
Vũ Hoàng Chương
No comments:
Post a Comment